Hình thức âm nhạc là gì

Hình thức âm nhạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  (12.8 MB, 263 trang )

TRẦN THANH HÀ
HÌNH THỨC ÂM NHẠC
NHẠC VIỆN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1
MỤC LỤC
TRẦN THANH HÀ 1
HÌNH THỨC ÂM NHẠC 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN 12
1. Khái niệm 12
2. Sự phân chia trong hình thức 12
2.1. Ngắt, lấy hơi và các dấu hiệu của nó 12
Chương 2 22
SỰ PHÂN CHIA CÁC PHẦN TRONG TÁC PHẨM ÂM NHẠC VÀ ĐẶC
ĐIỂM CỦA CHÚNG 22
1.Sự phân chia các phần trong tác phẩm âm nhạc 22
2. Đặc điểm từng phần 22
1.Những nguyên tắc phát triển chủ đề âm nhạc 35
2.Các phương thức biến đổi giai điệu chủ đề âm nhạc 40
1.Các hình thức âm nhạc chủ điệu 46
2. Các hình thức âm nhạc phức điệu 46
46
Chương 1 47
1.Đoạn nhạc và câu nhạc 47
2.Những đặc tính chung của đoạn nhạc 47
3. Tiết nhạc và mô-tip (motif) âm nhạc 59
Chương 2 65
TÍNH ĐỊNH KỲ CỦA KẾT CẤU 65
KẾT CẤU TỔNG HỢP VÀ KẾT CẤU PHÂN CHIA 65
1. Tính định kỳ của kết cấu 65
2. Kết cấu tổng hợp 66
3.Kết cấu phân chia 66


Chương 3 70
SỰ PHỨC TẠP HÓA CỦA ĐOẠN NHẠC 70
ĐOẠN NHẠC - MỘT HÌNH THỨC ĐỘC LẬP 70
2
1. Đoạn nhạc lớn và đoạn nhạc phức 70
Các tác phẩm thanh nhạc cũng thường được viết ở hình thức một đoạn phức.
Tác phẩm Chim sơn ca của Glinka gồm năm câu nhạc, tất cả các câu được
bắt đầu giống nhau, câu thứ năm là câu kết của bài. 73
[Xem minh họa Pl. 2 (II. 3  1) trong phần Phụ lục] 73
2. Đoạn nhạc với các câu nhạc không đều nhau 73
3. Đoạn nhạc với các câu nhạc kết nối móc xích 78
4.Đoạn nhạc - một hình thức độc lập 79
Chương 4 84
HÌNH THỨC HAI ĐOẠN ĐƠN 84
1. Khái niệm 84
2. Nhận xét chung 86
3. Phần thứ nhất của hình thức hai đoạn đơn 86
4. Phần thứ hai của hình thức hai đoạn đơn 87
5. Sơ đồ chung của hình thức hai đoạn đơn 92
6. Sự nhắc lại các phần trong hình thức hai đoạn đơn 93
7.Mở đầu và kết ở hình thức hai đoạn đơn 93
8.Áp dụng hình thức hai đoạn đơn 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
Mở rộng 2 95
HÌNH THỨC HAI ĐOẠN CỔ 95
1. Sơ lược về hình thức hai đoạn cổ 95
2.Áp dụng hình thức hai đoạn cổ 99
Chương 5 100
HÌNH THỨC BA ĐOẠN ĐƠN 100
1. Khái niệm 100

2. Nhận xét chung 100
3.Phần thứ nhất của hình thức ba đoạn đơn 104
4.Phần thứ hai của hình thức ba đoạn đơn - Phần giữa 105
5.Phần tái hiện của hình thức ba đoạn đơn 110
6.Sơ đồ hoà âm của hình thức ba đoạn đơn 112
3
7. Sự nhắc lại các phần của hình thức ba đoạn đơn 113
8. Mở đầu và coda của hình thức ba đoạn đơn 114
9. Áp dụng hình thức ba đoạn đơn 114
Chương 6 116
HÌNH THỨC BA ĐOẠN PHỨC 116
1. Khái niệm 116
2. Đặc điểm sự tương phản của phần giữa với các phần trình bày và tái hiện
116
3. Sự phân loại của hình thức ba đoạn phức 120
4. Mở đầu và Coda trong hình thức ba đoạn phức 124
5. Các dạng khác của hình thức ba đoạn phức 125
6.Áp dụng hình thức ba đoạn phức 126
Mở rộng 3 128
HÌNH THỨC HAI ĐOẠN PHỨC 128
1. Khái niệm 128
2. Đặc điểm của hình thức hai đoạn phức 128
Chương 7 131
HÌNH THỨC CHỦ ĐỀ VỚI NHỮNG BIẾN TẤU 131
1. Khái niệm 131
2. Các loại biến tấu 132
3. Áp dụng hình thức biến tấu 138
Chương 8 140
HÌNH THỨC RONDO 140
1. Nguồn gốc hình thức Rondo 140

2. Các loại Rondo 144
3. Các hình thức khác của hình thức Rondo 148
4. Áp dụng hình thức Rondo 150
Chương 9 152
HÌNH THỨC SONATE 152
1. Khái niệm 152
2. Đặc tính sự tương phản chủ đề của hình thức sonate 153
4
3. Phần trình bày 158
4. Phần phát triển 165
5. Phần tái hiện 168
6. Coda 170
7. Phần mở đầu 171
8. Những dạng biến đổi của hình thức sonate 172
9. Áp dụng hình thức sonate 174
Chương 10 176
HÌNH THỨC RONDO-SONATE 176
1. Khái niệm 176
1.Phần trình bày 177
2.Episode giữa 178
3.Phần tái hiện 179
4.Coda 180
5.Phần phát triển trong hình thức Rondo-Sonate 180
7. Áp dụng hình thức Rondo-Sonate 181
Mở rộng 4 182
HÌNH THỨC SONATE CỔ 182
1. Đặc điểm chung 182
2. Phần thứ nhất  Trình bày 184
3. Phần thứ hai  Phát triển và tái hiện 186
4. Sự xuất hiện của phần tái hiện đầy đủ 187

5.Áp dụng hình thức Sonate cổ 187
Chương 11 188
1. Khái niệm 188
2. Hình thức tổ khúc  Suite 188
3. Liên khúc Sonate-Giao hưởng 193
4. Bố cục liên khúc Sonate-Giao hưởng 193
TÀI LIỆU THAM KHẢO 202
PHỤ LỤC 204
Pl. 1 (II. 3 - 1) MỘT ĐOẠN ĐƠN 204
5
Ciao, Bella Ciao 204
(Traditinonal Italian) 204
Arr: V. Lockchiev 204
204
205
Pl. 2 (II. 3  1) MỘT ĐOẠN PHỨC 206
Chim Sơn Ca 206
Sehnsucht nach dem Fruhling 209
(Khát vọng mùa xuân) 209
Mozart - Worte von Chr. Overbeck 209
Pl. 4 (II. 3 - 2) ĐOẠN ĐỘC LẬP TRONG KHÍ NHẠC 210
Prelude 210
Chopin, op. 28, N. 4 210
Pl. 5 (II. 5 - 2) BA ĐOẠN ĐƠN VỚI ĐOẠN GIỮA TƯƠNG PHẢN 211
October  Autumn song 211
Tchaikovsky, op. 37b, N. 10 211
Pl. 6 (II. 6 - 1) BA ĐOẠN PHỨC VỚI ĐOẠN GIỮA TRIO 214
June  Barcarolle 214
Tchaikovsky, The Seasons op. 37b, N. 6 214
Pl. 7 (II. 6 - 2) BA ĐOẠN PHỨC VỚI ĐOẠN GIỮA EPISODE 218

Nocturne 218
Scriabin, op. 5, N. 2 218
Pl.8 (II. 6 - 3) HÌNH THỨC HAI ĐOẠN PHỨC 221
Mozart, Sonate C-dur, Serie 20 N.15 K. 545  II G-dur 221
Pl. 9 (II. 7  1) BIẾN TẤU TÔ ĐIỂM 224
Beethoven, Sonate op. 26  I 224
PL. 10 (II. 8 - 1) RONDO CỔ ĐIỂN 232
Beethoven, Sonate op. 79  III 232
Pl. 11 (II. 8  2) RONDO BẮT ĐẦU BẰNG EPISODE 235
Rondo Alla Turka 235
Mozart, Sonate N. 12 - III 235
6
Pl. 12 (II. 9 - 2) HÌNH THỨC SONATE 239
Beethoven, Sonate op. 2, N. 1 - I 239
Pl. 13 (II. 9 - 1) HÌNH THỨC SONATE 244
Beethoven, Sonate op. 27, N. 2  III 244
Pl. 14 (II. 10 - 2) HÌNH THỨC SONATE CỔ 254
Domenico Scarlatti 254
Pl. 15 (II. 10-1) RONDO - SONATE 257
Beethoven, Sonate No. 8 op. 13  III 257
LỜI NÓI ĐẦU
Âm nhạc là nghệ thuật dùng âm thanh để diễn tả tư tưởng và tình cảm
1
.
Những âm thanh ấy khi kết hợp với ngôn ngữ - lời ca sẽ trở thành các tác phẩm
thanh nhạc, khi tồn tại độc lập sẽ trở thành các tác phẩm khí nhạc (âm nhạc không
lời). Đối với các tác phẩm thanh nhạc, phần lời ca giúp cho người nghe hiểu nội
dung tác phẩm một cách dễ dàng hơn. Còn đối với các tác phẩm âm nhạc không lời,
chỉ thuần tuý là sự vang lên của các âm thanh, nên để có thể hiểu được nội dung và
những xúc cảm âm nhạc của những tác phẩm ấy một cách sâu sắc, đòi hỏi người

nghe phải có một sự chuẩn bị về kiến thức cơ bản nhất định. Một trong những kiến
thức ấy chính là việc hiểu biết về cách tiến hành xây dựng một tác phẩm âm nhạc,
bao gồm một hệ thống cơ cấu và các phương tiện để diễn đạt nội dung của tác phẩm
âm nhạc, hay nói khác là phải nắm được kiến thức về hình thức âm nhạc. Đối với
những người học âm nhạc chuyên nghiệp thì yêu cầu này lại càng trở nên cấp thiết,
bởi có hiểu về hình thức âm nhạc thì mới có khả năng nắm bắt được ý đồ trong các
tác phẩm, mới có thể diễn tả được nội dung của các tác phẩm âm nhạc.
Với mong muốn mang đến cho các đối tượng theo học âm nhạc bậc trung cấp
tại các trường âm nhạc chuyên nghiệp thêm một tư liệu, một cách nhìn nữa về môn
học Hình thức âm nhạc, chúng tôi mạnh dạn biên soạn cuốn giáo trình này. Cuốn
giáo trình được biên soạn dựa trên hai tư liệu chính: Hình thức âm nhạc
2
của tác
giả I. V. Spasobin (bản tiếng Nga), và Xây dựng các tác phẩm âm nhạc
3
(bản
1
Dẫn theo Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 17
2
И. В. Способин (1972), Музыкальная форма (Пятое издание), Изд. Музыка, Москва
3
Л. Мазель (1960), Строение музыкальных произведений, Гос. Муз. Изд. Москва
7
tiếng Nga) của tác giả L. Madel. Trong quá trình làm việc, chúng tôi có đối chiếu
với tài liệu Hình thức âm nhạc
4
và Phân tích tác phẩm âm nhạc
5
của tác giả
Nguyễn Thị Nhung.

Nội dung chính của cuốn giáo trình này gồm hai phần:
Phần thứ nhất, giới thiệu những cơ sở lý luận của môn học, gồm các khái
niệm, đặc điểm của sự phân chia trong âm nhạc, các nhân tố chính trong việc xây
dựng và hình thành một tác phẩm âm nhạc, các nguyên tắc phát triển và các phương
pháp biến đổi giai điệu chủ đề trong âm nhạc.
Phần thứ hai, trình bày các hình thức âm nhạc chủ điệu. Phần này cung cấp
những kiến thức cơ bản nhằm giúp người học nắm được đặc điểm của đoạn nhạc và
các thành phần của đoạn nhạc (câu nhạc, tiết nhạc, motif âm nhạc), giúp người học
có thể phân biệt được các loại đoạn nhạc khác nhau dựa trên các yếu tố giai điệu
chủ đề, cấu trúc và hoà âm. Vì rằng có hiểu được các đặc điểm trong cấu trúc của
đoạn nhạc, người học mới có thể tiếp thu được những kiến thức trong phần tiếp theo
của các hình thức lớn, phức tạp hơn.
Do giới hạn chương trình của bậc học trung cấp, giáo trình dừng lại ở hình
thức Liên khúc Sonate-Giao hưởng. Một số hình thức ít gặp, chúng tôi đưa vào
các phần Mở rộng như là tư liệu, để người học có thể tự tìm hiểu, tham khảo.
Chúng tôi lấy đơn vị là Chương cho mỗi một hình thức. Các chương có độ
dài ngắn khác nhau nên thời gian học các chương cũng khác nhau. Vì đối tượng
người học là học sinh của các trường âm nhạc chuyên nghiệp, do đó các ví dụ mà
chúng tôi trích dẫn chủ yếu được lấy từ các tác phẩm của các nhạc sỹ nổi tiếng trên
thế giới. Các tác phẩm này đã trở thành tài sản chung của nhân loại, nhờ thế người
học có thể dễ dàng tìm được những tư liệu không chỉ là văn bản, mà còn là âm
thanh, hình ảnh để tìm hiểu, nghiên cứu. Phần lớn các ví dụ trong giáo trình này
được trích dẫn từ tài liệu Hình thức âm nhạc của Spasobin.
4
Nguyễn Thị Nhung (1991), Hình thức âm nhạc, Nxb Âm nhạc, HN
5
Nguyễn Thị Nhung (2005), Phân tích tác phẩm âm nhạc, Trung tâm thông tin  Thư viện âm nhạc xuất
bản, HN.
8
Sau mỗi chương đều có phần câu hỏi hướng dẫn ôn bài và danh mục các tác

phẩm tham khảo để người học vận dụng phần lý thuyết đã học vào việc tìm hiểu các
hình thức trong các tác phẩm âm nhạc cụ thể. Đây có thể xem như là phần bài tập
về nhà.
Ngoài những nội dung chính như vừa nêu, cuối giáo trình còn có phần Phụ
lục. Trong phần này chúng tôi giới thiệu một số tác phẩm âm nhạc mà trước đó
trong các chương chúng tôi chỉ trích dẫn một vài nhịp để minh họa cho một hình
thức cụ thể nào đó.
Để học tốt môn Hình thức âm nhạc, người học cần nghe giảng, có bản nhạc,
tổng phổ để theo dõi, có file âm thanh để nghe, cảm nhận.
Chúng tôi gửi lời cảm ơn tới các quý vị đã tham dự các buổi nói chuyện
chuyên đề, các em học sinh, sinh viên tại nhạc viện TP. Hồ Chí Minh cũng như ở
các tỉnh thành khác như Đồng Tháp, Đà Lạt, Bến Tre, Tiền Giang, Bình Dương, Cà
Mau, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Cần Thơ, Trà Vinh, Bình Thuận đã nghe những
bài giảng của chúng tôi, đã chia sẻ với chúng tôi trong suốt 15 năm qua. Trong quá
trình biên soạn, chúng tôi đã nhận được những ý kiến đóng góp rất quý giá của các
nhà giáo, nhà nghiên cứu, các Giáo sư trong Hội đồng Khoa học Nhạc viện TP. Hồ
Chí Minh như: GS. TS. NSND. Quang Hải, GS. Ca Lê Thuần, GS. NGND Hoàng
Cương, PGS. TS Thế Bảo, PGS. TS Minh Cầm, PGS. TS Nguyễn Văn Nam, TS.
Đào Trọng Minh. Chúng tôi đã tiếp thu và chỉnh lý để giáo trình được hoàn thiện
hơn.
Chúng tôi gửi lời cảm ơn tới các đồng nghiệp tại khoa Lý luận  Sáng tác và
Chỉ huy cùng các đồng nghiệp khác tại Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh. Cảm ơn các
em sinh viên chuyên ngành Sáng tác đã giúp tôi trong việc biên soạn giáo trình.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bạn đã đóng góp những ý kiến quý báu để
cuốn giáo trình được ra mắt ngày hôm nay.
Đặc trưng của âm nhạc là mang tính ước lệ và trừu tượng, hơn nữa sự phát
triển của âm nhạc là liên tục, đã kéo theo những sự thay đổi về hình thức cũng như
những phương tiện biểu đạt. Do đó để có thể trình bày được đầy đủ, thỏa đáng tất cả
các vấn đề trong cuốn giáo trình này là điều hết sức khó khăn, và tất nhiên sẽ không
9

tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong sẽ nhận được những ý kiến đóng
góp, bổ sung của các đồng nghiệp cũng như của các độc giả.
Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2010
TÁC GIẢ
10
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Các ví dụ sẽ được viết tắt, sau đó là số của ví dụ trích dẫn. Chẳng hạn:
Vd.1, Vd.2 tức là ví dụ 1, ví dụ 2, v.v.
2. Bản Giao hưởng: Symphonie, Symphony sẽ được viết tắt là Sym.
3. Số thứ tự các chương của các tác phẩm âm nhạc sẽ biểu thị bằng chữ số La
Mã, sau dấu gạch ngang -. Chẳng hạn: Tchaikovsky, Sym.6  I nghĩa là âm
nhạc chương I, bản giao hưởng số 6 của Tchaikovsky
4. Các ví dụ trong phần Phụ lục bao gồm 2 thành tố: 1) Số thứ tự các ví dụ trong
phụ lục (Pl.1, Pl.2, v.v. tức là ví dụ minh hoạ 1, 2, v.v. trong Phụ lục), và 2) Số
La Mã để chỉ Phần, tiếp đến số chỉ tên chương (sau dấu chấm), sau dấu gạch
ngang là số ví dụ. Chẳng hạn: Pl. 4, II. 3-2, tức là ví dụ thứ 4 trong phụ lục, là ví
dụ 2, chương 3, phần II (Chopin, Prelude op. 28 N. 4).
5. Chúng tôi sử dụng tên gọi cũng như cách phân chia các thành phần trong đoạn
nhạc là: câu nhạc, tiết nhạc và motif âm nhạc. Tên gọi và cách phân chia này đã
được các tác giả V. A. Vakhrameev
6
cũng như nhóm tác giả Phạm Tú Hương,
Đỗ Xuân Tùng và Nguyễn Trọng Oánh
7
đề cập trong sách Lý thuyết âm nhạc
cơ bản. Các tài liệu trên hiện đang được giảng dạy tại nhạc viện TP. Hồ Chí
Minh
8
và Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Tác giả Nguyễn Thị Nhung
trong Hình thức âm nhạccũng sử dụng cách phân chia này

9
.
6. Các chủ đề I, chủ đề II trong hình thức Sonate còn được gọi là chủ đề chính
và chủ đề phụ. Trong sơ đồ hình thức, các chủ đề này sẽ được viết tắt là C.đề I,
C.đề II. Phần Nối và phần Kết luận viết tắt là Nối và Kết luận. Giọng điệu viết
tắt là g. điệu.
6
V.A. Khavrameev (1985), Vũ Tự Lân dịch, Lý thuyết âm nhạc cơ bản, Nxb. Văn Hoá, tr. 211
7
Nhóm tác giả Phạm Tú Hương, Đỗ Xuân Tùng và Nguyễn Trọng Oánh (2005), Lý thuyết âm nhạc cơ bản
(Giáo trình dành cho hệ trung học âm nhạc chuyên nghiệp), Nhạc viện Hà Nội xuất bản, tr. 153
8
Môn học Nhạc lý cơ bản
9
Nguyễn Thị Nhung (1991), Hình thức âm nhạc, Nxb. Âm nhạc, HN, tr. 48
11
PHẦN THỨ NHẤT
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Chương 1
KHÁI NIỆM HÌNH THỨC ÂM NHẠC
1. Khái niệm
Hình thức âm nhạc là tên gọi của quá trình xây dựng tác phẩm âm nhạc. Hình
thức được xác định bởi nội dung của từng tác phẩm, hình thức đó được hình thành
trong sự thống nhất với nội dung và đặc trưng của nó là mối quan hệ tương hỗ giữa
tất cả các thành tố âm thanh riêng biệt được phân bố, lặp lại theo thời gian.
Mỗi tác phẩm âm nhạc luôn có một hình thức riêng và mang tính đặc thù,
nhưng các quy luật tạo nên hình thức âm nhạc lại khá hạn chế, vì thế nhiều tác
phẩm âm nhạc sẽ có đặc điểm chung về hình thức. Điều này cho phép ta có thể xác
định được những dạng hình thức, xây dựng được những sơ đồ cấu trúc chung của
các tác phẩm âm nhạc. Những sơ đồ đó khá phổ biến bởi tính uyển chuyển và hợp

lý của chúng, và ít nhiều cũng phải phù hợp với quy luật thẩm mỹ chung của tính
thống nhất trong từng cái riêng biệt.
Hình thức tồn tại trong tất cả các loại hình nghệ thuật. Tuy nhiên, quy luật xây
dựng hình thức của mỗi loại hình nghệ thuật lại khác nhau.
Âm nhạc là nghệ thuật sử dụng âm thanh. Các nhân tố âm thanh được phát
triển nối tiếp nhau, lần lượt đi vào nhận thức thông qua tai nghe, thông qua sự tiếp
nhận của mỗi người. Và như vậy, hình thức âm nhạc là một quá trình phát triển,
biến đổi liên tục theo thời gian với các mức độ khác nhau.
2. Sự phân chia trong hình thức
2.1. Ngắt, lấy hơi và các dấu hiệu của nó
Hình thức âm nhạc là sự thống nhất, hoàn thiện, nhưng bên trong sự thống
nhất ấy lại bao gồm những thành phần khác nhau, chúng được giới hạn bởi ý đồ
12
nghệ thuật. Mối tương quan của các thành phần này cũng giống như sự phân chia
trong văn học. Những bộ phận lớn của hình thức có thể so sánh với các chương của
tác phẩm văn học, nhỏ hơn là các đoạn, các câu với độ dài ngắn khác nhau và thậm
chí là từng từ.
Thời điểm phân chia các thành phần trong hình thức nói trên được gọi là ngắt.
Sự thể hiện của ngắt trong hình thức rất đa dạng, ta có thể nhận thấy một số dấu
hiệu cơ bản của chúng như sau:
- Dấu lặng:
Vd. 1:
Tchaikovsky, Sym. N.6  I
Allegro non troppo
13
- Sau các nốt ngân dài:
Vd. 2:
Rachmaninov, Melody op. 3, N. 3
Adagio sostenuto
- Sau các nhóm âm hình tiết tấu giống nhau:

Vd. 3:
Dargomusky, Opera Russalka, cảnh 1
Allegro Moderato
Ngoài ba dấu hiệu cơ bản nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy những dấu hiệu
khác của ngắt, chẳng hạn như khi có sự thay đổi về âm vực, sắc thái, âm lượng, v.v.
Dấu ngắt được thể hiện rõ hơn khi ở bè chính của tác phẩm âm nhạc.
14
2.2. Những nhân tố chính trong âm nhạc
Những nhân tố cơ bản, có ý nghĩa nhất trong sự hình thành hình thức âm nhạc
có thể kể đến là: giai điệu, hoà âm và tiết tấu cùng mối tương hỗ giữa chúng. Trong
chương trình học âm nhạc, các vấn đề trên được đề cập trong các môn học như Lý
thuyết âm nhạc cơ bản, Hoà âm. Ở đây, chúng ta sẽ nhìn nhận chúng dưới góc
độ của môn Hình thức âm nhạc.
2.2.1. Giai điệu âm nhạc
Giai điệu là tư duy âm nhạc được biểu hiện bằng một bè, là yếu tố quan trọng
nhất trong âm nhạc. Giai điệu được hình thành từ sự kết hợp những âm có cao độ
giống và khác nhau, nối tiếp theo một tiết tấu nào đó. Giai điệu phải thể hiện được
một nội dung, một hình tượng âm nhạc và nội dung, hình tượng ấy phải nhận được
sự đồng cảm của người nghe.
Giai điệu có những đặc điểm riêng của nó. Trước hết là hướng đi của giai
điệu, ta thấy chúng luôn được thể hiện theo hình lượn sóng. Sự chuyển động này
của giai điệu giúp cho mạch đập âm nhạc diễn ra liên tục, không đơn điệu, tạo điều
kiện cho việc khắc họa hình tượng âm nhạc rõ nét hơn, đồng thời giúp cho sự tiếp
nhận của người nghe được thuận lợi hơn.
Cường độ của giai điệu phụ thuộc vào hướng đi của giai điệu. Khi giai điệu đi
lên, cường độ thường lớn dần (crescendo), khi giai điệu đi xuống cường độ thường
giảm dần (diminuendo).
Vd. 4:
Tchaikovsky, Opera The Queen of Spades (Con đầm bích)
Andante mosso

15
Sự phát triển của giai điệu sẽ dẫn đến cao trào âm nhạc, nốt cao nhất của cao
trào được gọi là đỉnh điểm của cao trào. Đây là nơi thể hiện sự căng thẳng, đặc biệt
nhất của tác phẩm, và như vậy mỗi một hình thức đều có một cao trào âm nhạc
riêng.
Trong sự luân chuyển của giai điệu, chúng ta còn gặp một dạng khác nữa của
giai điệu, đó là giai điệu ẩn. Đặc điểm của giai điệu ẩn là sự nối tiếp các nốt
trong tiến hành giai điệu xảy ra không được liên tục. Nếu giai điệu như đã xét ở trên
là một nét liền, thì giai điệu ẩn có thể được xem là những nét đứt, rời, không liên
tục:
16
Vd. 5
Chopin, Mazurka, op. 24, N. 4

Vd. 6 Bach, Invention, D-dur
Moderato
2.2.2. Chủ đề âm nhạc
Chủ đề âm nhạc là thành phần thể hiện tư tưởng chủ đạo, cốt lõi của một tác
phẩm âm nhạc hoặc các phần của tác phẩm ấy. Chủ đề có thể biểu hiện theo các
dạng khác nhau tuỳ thuộc vào từng hình thức và thể loại âm nhạc.
Trong những trường hợp đơn giản, chủ đề có thể là một giai điệu hoặc một
phần của giai điệu, nếu như giai điệu hoặc phần giai điệu ấy chứa đựng những nét
đặc trưng và mang tính quy luật của tác phẩm. Nét đặc trưng và tính quy luật này
có thể được biểu hiện qua cách sử dụng quãng, âm hình tiết tấu. Và như vậy, chủ đề
âm nhạc luôn súc tích, ngắn gọn và bền vững.
Trong những trường hợp phức tạp hơn, chủ đề là sự kết hợp của tất cả các yếu
tố như tiết tấu, hoà âm, âm sắc, cách cấu tạo trong một cấu trúc hình thức nào đó.
17
2.2.3. Hòa âm
Hòa âm là nghệ thuật kết hợp các âm thành những hợp âm và những hợp âm

này nối tiếp nhau trong mối tương quan theo chiều dọc, chiều ngang. Hòa âm đóng
vai trò quan trọng trong việc xây dựng tác phẩm âm nhạc. Nói đến hòa âm là nói
đến công năng và màu sắc của chúng trong việc hình thành và phát triển hình thức
âm nhạc.
Trong lĩnh vực chức năng hợp âm, hòa âm biểu hiện ở mối tương quan giữa
hợp âm chủ với các hợp âm khác trong một trung tâm điệu tính. Hợp âm chủ luôn ở
trạng thái bình ổn và bền vững, còn các hợp âm khác trong điệu tính mang tính chất
không ổn định. Sự không ổn định của các hợp âm này được thể hiện ở các mức độ
khác nhau. Những hợp âm không ổn định tạo nên sự căng thẳng và chúng sẽ được
giải quyết về hướng hợp âm chủ - ổn định (theo nguyên mẫu - kết T  S  D  T)
Để phát triển hình thức ở mức độ lớn hơn (đôi khi cả với những hình thức
nhỏ), nếu chỉ sử dụng một điệu tính cho cả một phần lớn trong hình thức thì sẽ
không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của âm nhạc. Do đó, người ta phải sử dụng thủ
pháp chuyển điệu để tạo nên những sự căng thẳng, tương phản, những màu sắc mới.
Điều này đã tạo cơ sở cho việc so sánh giọng điệu. Khi đó, công năng hoà âm có
thêm ý nghĩa mới đó là thể hiện mối quan hệ giữa các điệu tính. Điệu tính chính là
điệu tính đóng vai trò chủ đạo theo nghĩa rộng nhất của từ này, đó là điệu tính bền
vững hơn so với các điệu tính khác, đó là điệu tính dùng để bắt đầu và kết thúc một
tác phẩm âm nhạc. Các điệu tính khác, không bền vững, là các điệu tính phụ thuộc.
Các điệu tính phụ thuộc này tạo nên sự căng thẳng, có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của hình thức. Từ đây xuất hiện mối tương quan mới về thứ tự giữa các hợp
âm tương phản át và hạ át: T  D  S  T.
Vd. 7 Scriabin, Prelude op. 11, N. 10
18
Công thức T  D  S  T này không đơn thuần là sự kết hợp giữa các hợp âm
bậc V, bậc IV của một điệu tính, mà cần được hiểu một cách khái quát, đó là một bố
cục, một trình tự sắp xếp các điệu tính nhằm tạo nên sự xung đột, tương phản và
cuối cùng của sự tương phản, xung đột ấy sẽ được giải quyết bằng cách khôi phục
lại điệu tính chính ban đầu. Đối với các đoạn riêng biệt, công thức này có thể xuất
hiện trực tiếp vào các giọng điệu phụ của D và S. Trong những trường hợp phức tạp

hơn, các thành phần của công thức trên lại được phân chia thành những thành tố
mới nhỏ hơn cùng với mối quan hệ giữa những thành tố ấy, chẳng hạn T  D  T  
S  T; T  D  với các giọng điệu khác  S  T; T  D  với các giọng điệu khác  T
S  T.
Công thức này được quan tâm, sử dụng rất nhiều trong các hình thức khác
nhau, bởi ý nghĩa quan trọng của bậc hạ át và giọng điệu của hạ át trong việc củng
cố âm chủ.
2.2.4. Tiết tấu
Vì âm nhạc là quá trình diễn ra theo thời gian, do đó tiết tấu đóng một vai trò
quan trọng trong việc tổ chức các âm thanh có cao độ. Theo nghĩa hẹp, tiết tấu là
giới hạn về trường độ của các âm thanh nối tiếp nhau.
Chúng ta có thể nhận thấy một loạt các âm nối tiếp nhau dưới đây:
Vd. 8
19
Bởi vì các âm trên không có sự xác định rõ ràng trong mối tương quan về
trường độ cho nên chúng không tạo nên ấn tượng của một ý tưởng nào mặc dù
chúng được viết ở cùng một giọng điệu và ở các quãng khác nhau.
Khi các âm trên được tổ chức theo một âm hình tiết tấu với tốc độ Moderato
molto, khi đó chúng đã có một nội dung và tính chất trang trọng:
Vd.9
Wagner
Moderato molto

Nếu ta thay đổi âm hình tiết tấu trên và thể hiện bằng staccato thì các âm ấy
lại mang một tính chất khác  tính vui đùa, bông lơn:
Vd. 10
Molto staccato
Như vậy, tiết tấu đã liên kết các âm, các hợp âm khác nhau gắn chúng thành
một khối, tạo nên những nhóm với cá tính riêng. Từ sự kết hợp của những nhóm tiết
tấu giống và khác nhau đã tạo nên các chủ đề, ý tưởng âm nhạc, và từ các chủ đề ấy

với sự phát triển của chúng đã tạo nên tác phẩm âm nhạc hoàn chỉnh.
Khái niệm tiết tấu có thể hiểu theo nghĩa rộng hơn, như là mối tương quan về
thời gian giữa các phần khác nhau trong hình thức.
20
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN BÀI
1. Hình thức âm nhạc là gì?
2. Hãy nêu các dấu hiệu chính để ngắt, lấy hơi?
3. Giai điệu âm nhạc là gi? Đặc điểm của giai điệu?
4. Giai điệu ẩncó đặc điểm gì?
5. Đặc điểm của chủ đề âm nhạc?
6. Vai trò của hòa âm, tiết tấu trong việc xây dựng hình thức âm nhạc?
21
Chương 2
SỰ PHÂN CHIA CÁC PHẦN TRONG TÁC PHẨM ÂM NHẠC
VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHÚNG
1. Sự phân chia các phần trong tác phẩm âm nhạc
Một tác phẩm âm nhạc hoàn chỉnh thường được chia làm sáu phần là:
- Phần mở đầu
- Phần trình bày
- Phần giữa
- Phần nối
- Phần tái hiện
- Phần kết (coda)
2. Đặc điểm từng phần
2.1. Phần mở đầu
Đây là phần đầu tiên của một tác phẩm âm nhạc. Mục đích của phần này là
chuẩn bị cho việc xuất hiện giai điệu chủ đề của tác phẩm trong phần tiếp theo, tức
là phần trình bày. Sự chuẩn bị này được thể hiện về các mặt như giọng điệu, tốc độ
và tính chất âm nhạc của tác phẩm. Âm nhạc của phần mở đầu có thể được viết theo
nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung là theo hai cách cơ bản, đó là mở đầu có

nhân tố chủ đề âm nhạc và mở đầu không có nhân tố chủ đề âm nhạc của tác phẩm.
2.1.1. Mở đầu có nhân tố chủ đề
Là phần mở đầu mà âm nhạc của nó có sử dụng giai điệu chủ đề của tác phẩm.
Mức độ sử dụng có thể nhiều hay ít, có thể là cả một câu nhạc nhưng cũng có thể chỉ
là một motif hay một quãng đặc trưng trong chủ đề âm nhạc của tác phẩm mà thôi.
22
2.1.2. Mở đầu không có nhân tố chủ đề
Là phần mở đầu mà ở đó không sử dụng các nhân tố chủ đề âm nhạc của tác
phẩm. Giai điệu trong phần mở đầu này là giai điệu âm nhạc mới, người ta có thể
tiến hành phần mở đầu thậm chí chỉ bằng:
- Một nốt nhạc:
Vd. 11
- Một hợp âm:
Vd.12
- Một số hợp âm:
23
Vd.13
Dù là mở đầu theo phương pháp nào, có hay không có nhân tố chủ đề, phần
mở đầu nói chung không nên quá dài (so với độ dài của tác phẩm) và không nên quá
chói, sáng so với độ chói, sáng của tác phẩm.
2.2. Phần trình bày
Phần trình bày là phần tiếp theo phần mở đầu. Trong phần này, giai điệu chủ
đề âm nhạc của tác phẩm được xuất hiện lần đầu tiên với đặc điểm là sự bình ổn,
bền vững và sự tiết kiệm trong các phương tiện biểu hiện. Để có thể khắc họa
được hình tượng âm nhạc, phần trình bày phải đảm bảo được ba yêu cầu chính đó là
sự thống nhất về giai điệu chủ đề, sự thống nhất về hoà âm và sự thống nhất về cấu
trúc. Điều này sẽ giúp cho người nghe tiếp nhận, có thể nhớ và thuộc được giai điệu
chủ đề cũng như âm nhạc của tác phẩm.
2.2.1. Sự thống nhất về giai điệu chủ đề
Sự thống nhất về giai điệu chủ đề ở đây được thể hiện trong việc xuất hiện,

nhắc lại của một hoặc một số nhân tố giai điệu trong phần trình bày (xem ví dụ 14)
2.2.2. Sự thống nhất về hòa âm
Sự thống nhất về hoà âm được biểu hiện ở việc xuất hiện liên tục một giọng
điệu trong suốt phần trình bày. Đôi khi cũng có sự thay đổi hoà âm, đó là việc
chuyển sang các giọng điệu khác nhưng các giọng điệu khác này cũng là các giọng
điệu có quan hệ họ hàng gần với giọng điệu chính ban đầu và chỉ là sự chuyển tạm
24
trong một thời gian ngắn, sau đó chúng sẽ quay lại giọng điệu chính. Trong một số
trường hợp, sự chuyển điệu này dẫn đến các giọng điệu rất xa nhưng rồi chúng đều
được chuyển về giọng điệu ban đầu để đảm bảo sự thống nhất về hòa âm.
Vd.14
Moderato tranquilo Prokofiev, Romeo & Juliet
Có những trường hợp, việc chuyển điệu được tiến hành ngay từ đầu sự
trình bày chủ đề:
Vd. 15
Beethoven, Quartet op. 18, N. 1 - III
25