Theo thống kê của Liên hợp quốc có khoảng báo nhiều người trên thế giới thiếu nước sạch

MT&XH-Trái đất là một hành tinh xanh, có nhiều nước, nhưng 95,5% lượng nước có trên Trái đất là nước biển và đại dương. Lượng nước ngọt mà loài người có thể sử dụng được chỉ chiếm khoảng 0,01% lượng nước ngọt có trên Trái đất. Cuộc sống của tất cả chúng ta và nhiều loài sinh vật khác phụ thuộc vào lượng nước ít ỏi đó. Song song là Đô thị hóa, sản xuất nông nghiệp - công nghiệp và biến đổi khí hậu cũng đang gây sức ép lên cả chất lượng và số lượng nguồn nước.
 

Lượng nước quý giá đang bị suy thoái một cách nhanh chóng do các hoạt động của con người và con người đang phải vật lộn với sự thiếu hụt nước ngọt tại nhiều vùng trên thế giới. Nước chính là thứ tài nguyên vô giá, là tặng vật mà thiên nhiên ban tặng. Tuy nhiên nhiều người lại lầm tưởng rằng “ cái lộc trời ban” đó sẽ không bao giờ cạn kiệt. Chính quan niệm sai lầm này đã dẫn tới tình trạng dùng lãng phí nước sạch và đó là lý do giải thích vì sao nguồn nước sạch đang ngày một cạn kiệt.
Trong khi lượng nước ngầm dự trữ có thể dùng được không nhiều thì con  người lại gây lãng phí tới 30%, kéo theo nguy cơ khan hiếm nguồn nước lại càng lớn. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy, trong 37 tầng ngậm nước lớn nhất trái đất, 8 nguồn nước bị đánh giá là hoạt động quá công suất và hầu hết không hề có lượng nước tự nhiên bù đắp. Ngoài ra, 5 tầng ngậm nước khác cũng đang bị khai thác quá tải nghiêm trọng. Trong thời đại toàn cầu hóa như hiện nay thì vấn đề nước sạch đang là vấn đề báo động và đáng được quan tâm của không chỉ các nước phát triển mà còn đối với các nước đang phát triển nữa, những nước giàu cũng như nghèo. Điều này cũng chứng tỏ được đây là vấn đề toàn cầu hiện nay và cần sự chung tay nỗ lực của toàn thế giới.

Theo thống kê của Liên hợp quốc có khoảng báo nhiều người trên thế giới thiếu nước sạch

Theo Liên hiệp quốc, hiện nay có hơn 2,6 triệu người trên thế giới không được tiếp xúc với điều kiện vệ sinh cơ bản và gần một tỷ người không được dùng nước sạch. Cứ 20 giây lại có một trẻ em tử vong vì các bệnh liên quan đến tình trạng thiếu nước sạch và điều kiện vệ sinh không phù hợp. Hiện tại, hơn 80 quốc gia, đại diện cho 40% dân số thế giới, đang trải qua tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, nhất là khu vực Tây Nam Á và những vùng đất khô hạn và bán khô hạn châu Phi. Các chuyên gia về nước trên thế giới cảnh báo, hiện cứ 3 người trên trái đất thì có một người sống trong tình trạng thiếu nước. Thiếu nước đã là câu chuyện của toàn cầu. Chính vì vậy, cần có sự thay đổi mạnh mẽ về cách thức quản lý, sử dụng nguồn nước đang ngày càng khan hiếm khi mà dân số thế giới dự kiến sẽ tăng thêm 2 - 3 tỷ người vào năm 2050.Cùng đó có 17 quốc gia trên thế giới đã tiêu thụ tới 80% lượng nước có sẵn hàng năm trong khi vẫn chưa hết năm 2020. Trong khi đó, biến đổi khí hậu liên tiếp gây ra các đợt hạn hán kéo dài, khiến nguồn nước ngày càng cạn kiệt. Theo số liệu của WRI cập nhật trên Bản đồ nguy cơ thiếu nước thế giới (Aqueduct Water Risk Atlas), tình hình thiếu nước sạch đang diễn biến phức tạp chủ yếu tại các vùng khô cằn Trung Đông và Bắc Phi, trong đó đáng chú ý là Qatar, Israel và Liban. Ấn Độ xếp thứ 13 trong số các quốc gia phải đối mặt với nguy cơ cạn kiệt nguồn nước. Nhưng với dân số hơn 1,3 tỉ người – cao gấp 3 lần tổng số dân ở 16 quốc gia khác trong danh sách, tình hình thiếu nước tại đây trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Theo thống kê của Liên hợp quốc có khoảng báo nhiều người trên thế giới thiếu nước sạch

Việt Nam cũng là một trong số những nước đang hứng chịu hậu quả nặng nề của sự biến đổi khí hậu; mức độ ô nhiễm và khan hiếm nguồn nước đang trong tình trạng báo động hơn bao giờ hết. Khoảng hơn 20% dân cư chưa được tiếp cận nguồn nước sạch (khoảng 17,2 triệu người đang sử dụng nguồn nước sinh hoạt từ giếng khoan, chưa được kiểm nghiệm hay qua xử lý); trung bình mỗi năm có khoảng 9.000 người tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém; có gần 200.000 người mắc bệnh ung thư mới phát hiện, mà một trong những nguyên nhân chính bắt nguồn từ ô nhiễm môi trường nước. Lượng nước mặt bình quân đầu người mỗi năm chỉ đạt 3.840m3, thấp hơn chỉ tiêu 4.000m3/người/năm của Hội Tài nguyên Nước quốc tế (IWRA); 30% người dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của nước sạch; nguồn nước ngầm đang đối mặt với vấn đề ô nhiễm do bị xâm nhập mặn, ô nhiễm vi sinh, ô nhiễm kim loại nặng nghiêm trọng; hầu hết đô thị lớn đều bị ô nhiễm nước ngầm do tốc độ đô thị hóa...  

Theo thống kê của Liên hợp quốc có khoảng báo nhiều người trên thế giới thiếu nước sạch
Một số khu vực, nước dưới đất có nguy cơ ô nhiễm chất arsen cao, nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng (có 792 xã) và đồng bằng sông Cửu Long (229 xã), vùng Bắc Trung bộ (155 xã).  Nguồn nước ở hầu hết khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề đều đã bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng (như lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai, sông Sài Gòn) do nước thải từ các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, đô thị không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn xả vào nguồn nước.

Tình trạng ô nhiễm và khan hiếm môi trường nước, ngoài những nguyên nhân khách quan do yếu tố tự nhiên gây ra và nhu cầu sản xuất, đời sống ngày càng cao, thì nguyên nhân chủ yếu là do: Sự hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng; việc các chất thải từ sản xuất, sinh hoạt, khai thác tràn lan, thiếu quy hoạch và không có kế hoạch bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn nước; quyền hạn pháp lý của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh; các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức, dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng vẫn mang tính hình thức; công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập, mang tính thủ tục; công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường còn hạn chế; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ môi trường còn thấp; phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn… 

Theo thống kê của Liên hợp quốc có khoảng báo nhiều người trên thế giới thiếu nước sạch

Điều đáng nói là các hoạt động của con người đã và đang làm giảm sút một cách đáng kể số lượng và chất lượng nguồn nước ngọt của thế giới. Các hoạt động thiếu quy hoạch hợp lý như ngăn sông, đắp đập, chuyển đổi đất ngập nước, phá rừng, thải các chất thải sinh hoạt và công nghiệp ngày càng nhiều, đến mức thiên nhiên không thể phân hủy kịp, đã và đang gây ô nhiễm đất, nước, không khí. Trong lúc đó, nhu cầu ngày càng tăng nhanh của con người về nguồn nước ngọt đã làm thay đổi các dòng nước tự nhiên, thay đổi quy trình lắng/đọng và làm giảm chất lượng nước. Tình trạng thiếu nước trên thế giới ngày càng lan rộng, nạn khô hạn kéo dài, gây nhiều hậu quả về kinh tế và xã hội cho nhiều vùng rộng lớn. Tất cả những điều đó đều tác động tiêu cực lên sự phát triển, làm suy giảm đa dạng sinh học và chức năng của các hệ thống thủy vực trên thế giới.


Để có thể bảo tồn nguồn tài nguyên nước hết sức ít ỏi của chúng ta, chúng ta phải nhận thức được rằng cần phải giữ được sự cân bằng nhu cầu và khả năng cung cấp bằng cách thực hiện các biện pháp thích hợp. Để có thể hồi phục được sự cân bằng mỗi khi đã bị thay đổi, sẽ tốn kém rất lớn, tuy nhiên, có nhiều trường hợp không thể sửa chữa được. Vì thế cho nên, nhân dân tại tất cả các vùng phải biết tiết kiệm nước, giữ cân bằng giữa nhu cầu sử dụng với nguồn cung cấp, có như thế mới giữ được một cách bền vững nguồn nước với chất lượng an toàn.

Thu Phương

Roma, ngày 13 tháng 7 năm 2020 - Một nghiên cứu thường niên do Liên Hợp Quốc thực hiện đã phát hiện ngày càng có nhiều người rơi vào tình trạng thiếu ăn. Trong 5 năm qua, hàng chục triệu người đã gia nhập nhóm đối tượng bị suy dinh dưỡng kinh niên và nhiều quốc gia trên thế giới tiếp tục phải vật lộn chống chọi với các hình thức của suy dinh dưỡng.

Báo cáo mới nhất về Tình trạng An ninh Lương thực và Dinh dưỡng trên thế giới xuất bản ngày hôm nay ước tính có khoảng 690 triệu người rơi vào tình trạng thiếu ăn trong năm 2019 - tăng thêm 10 triệu người so với năm 2018 và thêm gần 60 triệu người trong vòng 5 năm. Chi phí cao và khả năng chi trả bữa ăn thấp đồng nghĩa với việc hàng tỷ người không có bữa ăn lành mạnh hoặc đầy đủ chất dinh dưỡng. Tình trạng thiếu ăn hoành hành nhiều nhất ở châu Á, nhưng lan ra với tốc độ nhanh nhất tại châu Phi. Theo dự đoán của báo cáo, đại dịch COVID-10 có thể đẩy thêm 130 triệu người trên khắp hành tinh rơi vào tình trạng thiếu ăn kinh niên vào cuối năm 2020. (Tình trạng bùng phát nạn đói trầm trọng trong bối cảnh đại dịch có thể làm con số này leo thang hơn nữa.)

Báo cáo Tình hình An ninh Lương thực và Dinh dưỡng trên thế giới là nghiên cứu toàn cầu đáng tin cậy nhất theo dõi tiến trình hướng tới mục tiêu xóa bỏ nạn đói và tình trạng suy dinh dưỡng. Nghiên cứu được đồng thực hiện bởi Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

Trong phần Lời mở đầu, lãnh đạo của năm cơ quan trên[i] cảnh báo rằng “đã 5 năm kể từ khi thế giới cam kết chấm dứt nạn đói, mất an ninh lương thực và tất cả các  hình thức suy dinh dưỡng, vậy mà chúng ta vẫn chưa đi đúng hướng  để đạt được mục tiêu này  vào năm 2030.”

Các số liệu về tình trạng thiếu ăn

Trong báo cáo  này, các cập nhật dữ liệu quan trọng của Trung Quốc và các quốc gia đông dân khác[ii] đã làm giảm đáng kể ước tính tổng số người phải chịu cảnh đói ăn trên thế giới, xuống còn 690 triệu người. Tuy nhiên, không có sự thay đổi nào về  xu hướng. Xem xét lại toàn bộ chuỗi số liệu về tình trạng thiếu ăn từ năm 2000 cho thấy kết luận vẫn như trước: sau khi giảm dần trong nhiều thập kỷ, tình trạng đói ăn kinh niên bắt đầu tăng trở lại vào năm 2014 và vẫn đang trên đà gia tăng.

Châu Á vẫn là nơi có số lượng người suy dinh dưỡng lớn nhất (381 triệu người). Đứng thứ hai là châu Phi (250 triệu người), tiếp theo sau là châu Mỹ Latinh và vùng Caribê (48 triệu người). Mức độ phổ biến của tình trạng suy dinh dưỡng trên toàn cầu - hay tổng tỷ lệ người rơi vào tình trạng đói ăn - thay đổi rất ít chỉ ở mức 8,9%, nhưng con số tuyệt đối lại tăng lên kể từ năm 2014. Điều này có nghĩa là trong 5 năm qua, tình trạng thiếu ăn đã tăng lên cùng với sự phát triển của dân số toàn cầu.

Số liệu cũng cho thấy một sự khác biệt rất lớn giữa các khu vực: Theo tỷ lệ phần trăm, châu Phi là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất và có thể còn nghiêm trọng hơn trong tương lai, với 19,1% dân số bị suy dinh dưỡng. Con số này gấp đôi tỷ lệ ở châu Á (8,3%) cũng như châu Mỹ Latinh và vùng Caribê (7,4%). Theo xu hướng hiện nay, đến năm 2030, hơn một nửa dân số bị đói kinh niên trên thế giới sẽ là người dân châu Phi.

Gánh nặng từ đại dịch

Trong khi tiến trình xóa đói bị đình trệ, đại dịch COVID-19 càng làm trầm trọng thêm những điểm yếu và thiếu sót trong hệ thống lương thực toàn cầu - ở đây được hiểu là tất cả các hoạt động và quy trình ảnh hưởng đến việc sản xuất, phân phối và tiêu thụ lương thực, thực phẩm. Dù hiện giờ còn quá sớm để đánh giá toàn bộ tác động của lệnh phong tỏa và các biện pháp kiểm soát dịch bệnh khác, báo cáo ước tính rằng ít nhất có thêm 83 triệu người, và có khả năng lên tới 132 triệu người, có thể rơi vào tình trạng đói ăn trong năm 2020 do hậu quả của suy thoái kinh tế vì COVID-19.[iii] Việc này  càng làm cho  khả năng đạt được Mục tiêu Phát triển Bền vững số 2 (Xóa đói) bị nghi ngờ.

Chế độ ăn uống không lành mạnh, mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng

Việc khắc phục nạn đói và suy dinh dưỡng dưới mọi hình thức (bao gồm  suy dinh dưỡng, thiếu vi chất dinh dưỡng, thừa cân và béo phì) không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo có đủ thức ăn để tồn tại: những gì mọi người ăn - và đặc biệt là những gì trẻ em ăn - cũng cần phải đảm bảo đủ chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, một trở ngại chính đối với vấn đề này là việc các thực phẩm dinh dưỡng có giá thành cao và một số lượng lớn các gia đình không đủ điều kiện chi trả cho chế độ ăn uống dinh dưỡng.

Theo bằng chứng từ báo cáo, thực đơn ăn uống lành mạnh có chi phí cao hơn rất nhiều so với mức 1,90 Đô-la Mỹ/ngày, ngưỡng chuẩn nghèo của thế giới. Điều này có nghĩa  là một chế độ ăn uống lành mạnh rẻ nhất  cũng có giá đắt gấp năm lần so với việc chỉ làm no bụng bằng tinh bột. Thực phẩm bơ sữa giàu dinh dưỡng, rau quả và thức ăn giàu đạm (nguồn thực vật và động vật) là những nhóm thực phẩm đắt đỏ nhất trên toàn cầu.  

Ước tính mới đây nhất cho thấy có tới hơn 3 tỷ người không có khả năng chi trả cho một chế độ  ăn uống lành mạnh. Dù khu vực nào cũng tồn tại tình trạng này, thậm chí cả Bắc Mỹ và châu Âu, nhưng có tới 57% dân số vùng châu Phi hạ Sahara và Nam Á phải sống trong tình trạng trên. Điều này khiến cho cuộc đua chấm dứt tình trạng suy dinh dưỡng phần nào bị cản trở. Theo báo cáo, trong năm 2019, khoảng một phần tư đến một phần ba trẻ em dưới năm tuổi (191 triệu trẻ em) bị suy dinh dưỡng thể thấp còi hoặc gầy còm - tức là quá thấp hoặc quá gầy. Ngoài ra, 38 triệu trẻ em dưới năm tuổi khác bị thừa cân. Trong khi đó, đối với người lớn, béo phì đang trở thành một đại dịch toàn cầu theo đúng nghĩa.

 Kêu gọi hành động

Báo cáo lập luận rằng một khi các cân nhắc về tính bền vững được đưa vào, sự chuyển hướng tới chế độ ăn uống  lành mạnh trên bình diện toàn cầu sẽ giúp chúng ta vừa không quay trở lại tình trạng đói nghèo mà vừa tiết kiệm khoản chi phí rất lớn. Báo cáo tính toán sự chuyển đổi như vậy sẽ giúp bù đắp gần như hoàn toàn chi phí y tế liên quan đến chế độ ăn uống  không lành mạnh, ước tính có thể lên tới 1,3 ngàn tỷ Đô-la Mỹ/năm vào năm 2030; trong khi đó, các chi phí xã hội liên quan đến chế độ ăn uống như phát thải khí nhà kính, ước tính khoảng 1,7 ngàn tỷ Đô-la Mỹ, có thể được giảm đi tới ba phần tư.[iv]

Báo cáo kêu gọi một sự chuyển đổi trong hệ thống lương thực, thực phẩm để cắt giảm chi phí cho thực phẩm dinh dưỡng và tăng khả năng chi trả cho các chế độ ăn uống lành mạnh. Mặc dù các giải pháp cụ thể có thể khác nhau giữa các quốc gia, hoặc khác nhau ngay trong một quốc gia, câu trả lời chung nằm ở các biện pháp can thiệp vào toàn bộ chuỗi cung ứng thực phẩm, vào môi trường thực phẩm và vào nền kinh tế chính trị hình thành nên các chính sách thương mại, chi tiêu công và đầu tư. Nghiên cứu kêu gọi các chính phủ đưa dinh dưỡng làm xu thế chủ đạo trong phương pháp tiếp cận nông nghiệp; nghiên cứu để cắt giảm các yếu tố làm gia tăng chi phí trong sản xuất, lưu trữ, vận chuyển, phân phối và tiếp thị lương thực, thực phẩm - thông qua  việc giảm bớt thiếu hiệu quả, mất mát và lãng phí thực phẩm; hỗ trợ các nhà sản xuất quy mô nhỏ tại địa phương nuôi trồng và bán nhiều thực phẩm dinh dưỡng hơn, đồng thời đảm bảo họ có thể tiếp cận thị trường; ưu tiên dinh dưỡng cho trẻ em là nhóm có nhu cầu lớn nhất; đẩy mạnh thay đổi hành vi thông qua giáo dục và truyền thông; và đặt dinh dưỡng làm nền tảng trong các hệ thống bảo trợ xã hội quốc gia và chiến lược đầu tư.

Lãnh đạo của năm cơ quan Liên Hợp Quốc tham gia thực hiện Báo cáo Tình hình An ninh Lương thực và Dinh dưỡng trên thế giới tuyên bố cam kết của mình hỗ trợ công cuộc chuyển mình trọng đại này, đảm bảo sự chuyển đổi sẽ mở ra “con đường bền vững, cho mọi người và cho toàn thế giới”.

Toàn văn báo cáo và báo cáo tóm tắt (tiếng Anh): http://www.fao.org/publications/sofi/en/

Cần thêm thông tin, mời liên hệ :

  • Louis Vigneault-Dubois, UNICEF Việt Nam +84-24-38500241; +84-966539673; email :
  • Nguyễn Thị Thanh Hương, UNICEF Việt Nam, 84-24-38500225; +84-904154678; email:

[i] Đại diện FAO – Qu Dongyu, Tổng Giám đốc; đại diện IFAD – Gilbert F. Houngbo, Chủ tịch; đại diện UNICEF – Henrietta H. Fore, Giám đốc Điều hành; đại diện WFP – David Beasley, Giám đốc Điều hành; đại diện WHO – Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng Giám đốc.

[ii] Cập nhật thông số chính, đo lường sự bất cân xứng về lượng  thực phẩm tiêu thụ trong các xã hội, được thực hiện ở 13 quốc gia với tổng dân số gần chạm mốc 2,5 tỷ người: Băng-la-đét, Trung Quốc, Cô-lôm-bi-a, Ê-cu-a-đo, Ê-ti-ô-pi-a, Mê-hi-cô, Mông Cổ, Mô-dăm-bích, Ni-giê-ri-a, Pa-ki-xtan, Pê-ru, Xu-đăng và Thái Lan. Đặc biệt, quy mô dân số của Trung Quốc đã có tác động đơn lẻ lớn nhất lên con số thống kê toàn cầu.

[iii] Con số này dao động tương ứng với dự đoán gần đây nhất về việc GDP toàn cầu sẽ sụt giảm từ 4,9 đến 10%.

[iv] Báo cáo phân tích “chi phí chìm” của chế độ dinh dưỡng không lành mạnh và các giải pháp mô hình liên quan đến bốn chế độ dinh dưỡng thay thế: ăn chay bán phần, chỉ ăn cá và hải sản, ăn chay và ăn chay thuần. Báo cáo cũng thừa nhận rằng một số quốc gia nghèo hơn có lẽ cần tăng lượng phát thải các-bon để giúp họ đạt được các chỉ tiêu dinh dưỡng. (Điều ngược lại cũng đúng đối với các quốc gia giàu có hơn).