Sự khác biệt giữa quản lý công và hành chính công
So sánh và phân biệt giữa Quản lý công truyền thống với Quản lý công mới22/04/2013 Show Xem cỡ chữ: In trang Gửi tới bạn Chia sẻ: Zalo Quản lý công truyền thống gặt hái nhiều thành công trong thế kỷ 20 nhưng đã trở nên lỗi thời từ cuối những năm 1970. Nguyên nhân là do các nguyên tắc quản lý quá cứng nhắc, thiếu sự linh hoạt và không khuyến khích sự sáng tạo. Vì vậy, từ đầu những năm 1980, mô hình quản lý công mới được xây dựng dựa trên nguyên tắc thúc đẩy thị trường tự do được giới thiệu và áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tại các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Úc. Bài viết này nhằm so sánh và phân biệt giữa Quản lý công truyền thống và Quản lý công mới, qua đó chỉ ra rằng Quản lý công mới là mô hình quản lý có thể khắc phục được nhiều hạn chế, yếu kém của phương thức Quản lý công truyền thống, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành trong lĩnh vực công. Hành chính công và Quản lý công Thuật ngữ ‘hành chính’ (administration) có nghĩa hẹp hơn so với thuật ngữ ‘quản lý’ (management). Trong lĩnh vực công, ‘hành chính công’ (public administration) và ‘quản lý công’ (public management) cũng có ý nghĩa khác nhau. Hành chính công đề cập đến thủ tục, quy trình để thực hiện chính sách đã được hoạch định bởi người khác thành hành động cụ thể trong thực tế quản lý, điều hành. Trong khi đó quản lý công được hiểu theo nghĩa rộng hơn, ngoài việc bao gồm quy trình, thủ tục hành chính, quản lý công còn liên hệ tới việc xác định ai, tổ chức nào sẽ thực hiện và chịu trách nhiệm về việc đảm bảo đạt được mục tiêu, kết quả mà nhà hoạch định chính sách đã đề ra. Vì vậy, sự thay đổi từ ‘hành chính công’ sang ‘quản lý công’ được coi là sự thay đổi lớn về học thuyết và thực tế trong việc quản lý đối với lĩnh vực công. Ngày nay, thuật ngữ Quản lý công được sử dụng phổ biến, ngược lại Hành chính công ít được sử dụng hơn. Hành chính công cũng được dùng để chỉ Quản lý công truyền thống phát triển trong thể kỷ 20 đối lập với Quản lý công mới nỗi lên từ cuối những năm 1980. Quản lý công truyền thống (traditional public management) Hành chính công là khái niệm đã có từ thời xa xưa, song hành cùng với sự tồn tại của Nhà nước. Mặc dù hệ thống hành chính đã có từ lâu đời, nhưng mô hình truyền thống của hành chính công, còn gọi là quản lý công truyền thống chỉ thực sự được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19. Trong số nhiều học giả, Weber được xem là học giả có ảnh hưởng lớn nhất đến sự hình thành và phát triển của Quản lý công truyền thống. Weber lập luận rằng có ba loại quyền lực khác nhau. Loại thứ nhất là quyền lực có được từ sự lôi cuốn, thuyết phục của các cá nhân đặc biệt như các vị vua, chúa. Loại thứ hai là quyền lực mang tính truyền thống như quyền lực của các tù trưởng, tộc trưởng, người đứng đầu các bộ lạc. Loại cuối cùng là quyền lực có được do pháp luật quy định. Trong ba loại truyền lực trên, Weber cho rằng quyền lực do pháp luật quy định là quan trọng nhất. Dựa trên loại quyền lực này, Weber thiết lập sáu nguyên tắc cơ bản của học thuyết quan liêu, nền tảng của phương thức quản lý công truyền thống. Nguyên tắc thứ nhất là quyền lực phải được hình thành bởi các quy định của pháp luật, ngoài ra không còn loại quyền nào khác có thể bắt buộc mọi người phải tuân thủ. Từ nguyên tắc này, Weber hình thành nên nguyên tắc thứ hai, cũng là nguyên tắc phổ biến nhất, được gọi là nguyên tắc thứ bậc trong quản lý. Nguyên tắc này yêu cầu quyền lực phải được thiết lập và duy trì trong tổ chức theo một hệ thống thứ bậc nhất định. Thẩm quyền, quyền lực không phụ thuộc vào bất cứ cá nhân nào trong tổ chức mà phụ thuộc vào vị trí, cấp bậc mà cá nhân nắm giữ trong hệ thống thứ bậc của tổ chức. Nguyên tắc thứ ba chỉ ra rằng tài liệu thành văn là nguồn hết sức quan trọng để đảm bảo hiệu quả quản lý và tính vô tư của nền hành chính, lập luận rằng các quy định của luật chỉ được áp dụng một cách thống nhất cho mọi trường hợp khi nó được viết và lưu trữ thành văn. Nguyên tắc thứ tư nhấn mạnh hành chính là một nghề đặc biệt, có được thông qua đào tạo nên không phải ai cũng có thể làm được. Nguyên tắc thứ năm yêu cầu hành chính phải là công việc được làm trọn thời gian, thay vì bán thời gian như trước đó. Nguyên tắc cuối cùng của Weber chỉ ra rằng quản lý công là công việc có thể được học, bởi vì nó tuân thủ theo những quy tắc chung nhất định. Những quy tắc này có thể được thực hiện theo cùng một cách bởi bất kỳ người nào nắm giữ một vị trí, công việc nhất định trong tổ chức. Điểm khác biệt căn bản và quan trọng nhất của quản lý công truyền thống so với các mô hình hành chính trước đó là sự thay thế của nền hành chính tồn tại dựa trên sự tin tưởng, trung thành đối với cá nhân bằng nền hành chính tồn tại dựa trên các quy định của pháp luật. Sự tồn tại của các quy định thành văn thực sự đã đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo luật được áp dụng như nhau cho mọi người trong mọi tình huống, không phân biệt người đó là ai, làm gì. Sự bình đẳng trong xã hội nhờ vậy được củng cố. Thêm vào đó, các nguyên tắc của Weber còn góp phần quan trọng trong việc ổn định nền hành chính, bởi vì hệ thống tổ chức và các quy định của nó không lệ thuộc vào bất kỳ cá nhân nào trong tổ chức, không bị mất đi khi bất cứ cá nhân nào, dù người đó là ai, rời khỏi tổ chức. Quản lý công truyền thống vì vậy được áp dụng rộng rãi bởi nhiều quốc gia trên thế giới và trên thực tế đã đạt được rất nhiều thành công trong suốt thời kỳ phát triển công nghiệp hóa. Tuy nhiên, từ cuối những năm 1970, các hạn chế, khuyết điểm của mô hình quản lý này dần bộc lộ, châm ngòi cho cuộc cải cách mạnh mẽ về phương thức quản lý trong lĩnh vực công ở nhiều nước phương Tây từ đầu những năm 1980. Từ Quản lý công truyền thống đến Quản lý công mới Hai học giả nổi tiếng người Mỹ là Osborne và Gaebler nói rằng, thuyết quan liêu của quản lý công truyền thống được hình thành và phát triển trong các điều kiện xã hội khác rất xa so với những gì mà chúng ta chứng kiến hôm nay. Chúng ta sống trong kỷ nguyên của sự thay đổi kỳ diệu, trong thời kỳ toàn cầu hóa với rất nhiều áp lực cạnh tranh đặt lên vai các tổ chức kinh tế, trong xã hội thông tin mà người lao động ở cấp thấp có thể tiếp cận được thông tin nhanh như các nhà lãnh đạo, trong xã hội mà nhu cầu của con người trở nên đa dạng, phong phú thay vì giống nhau như trước. Các nguyên tắc của quản lý công truyền thống bị cho là quá cứng nhắc, thiếu linh hoạt, là mầm mống tạo ra những kẻ xu thời, cơ hội thay vì khuyến khích những người năng động, sáng tạo. Nó cũng làm cho những người làm trong lĩnh vực công trở nên ì ạch, ngại thay đổi, sợ va chạm, không thích mạo hiểm và lãng phí các nguồn lực thay vì sử dụng chúng một cách hiệu quả. Bộ máy nhà nước do vậy chứa đựng quá nhiều người dư thừa, những người không làm được việc, nhưng cũng không thể cho nghỉ. Sự thăng tiến trong tổ chức theo hệ thống thứ bậc thường được xem xét dựa trên thâm niên công tác hơn là năng lực cá nhân. Điều này làm cho lĩnh vực công thiếu hấp dẫn đối với những người trẻ và những người thực sự có năng lực. Vì vậy, nhiều cuộc tấn công mạnh mẽ về quy mô và sự yếu kém trong việc quản lý đối với khu vực công bắt đầu diễn ra từ đầu những năm 1980. Kết quả của nó là mô hình mới của quản lý công được hình thành và áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia từ cuối những năm 1980. Mô hình này có nhiều tên gọi khác nhau, thông thường được gọi là Quản lý công mới được đặt bởi Hood, học giả người Anh, để phân biệt với Quản lý công truyền thống. So sánh Quản lý công truyền thống và Quản lý công mới Quản lý công truyền thống và quản lý công mới có những cách tiếp cận khác nhau về phương thức quản lý, nên không khó để chỉ ra sự đối lập và những điểm khác biệt giữa hai mô hình quản lý này. Trong khi quản lý công truyền thống cho rằng lĩnh vực công và tư là hoàn toàn khác nhau, quản lý công mới phản đối sự phân biệt này, đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các thành phần, khuyến khích các tổ chức công, tổ chức tư và các tổ chức phi lợi nhuận cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội. Quản lý công mới đo lường hiệu quả quản lý, chú trọng đến đầu ra thay vì đầu vào của công việc. So với quản lý công truyền thống, quản lý công mới đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý, khuyến khích các cơ quan trong lĩnh vực công kiếm tiền thay vì chỉ biết tiêu tiền. Quản lý công truyền thống thúc đẩy các cơ chế thị trường hơn là đề cao các nguyên tắc quan liêu trong quản lý. Nội dung bài viết này tập trung chỉ ra ba điểm khác biệt cơ bản sau giữa quản lý công truyền thống và quản lý công mới. Thứ nhất: Quản lý dựa vào hiệu quả, chú trọng đến đầu ra thay vì đầu vào của công việc Theo cách truyền thống, các cơ quan của nhà nước thường dựa vào đầu vào để đo lường hiệu quả công việc. Ví dụ như việc phân bổ kinh phí cho các trường học thường căn cứ vào số lượng học sinh của nhà trường, công tác hỗ trợ xã hội được thực hiện dựa trên số lượng người nghèo trên địa bàn, hay việc đầu tư cho ngành cảnh sát được dựa vào số lượng tội phạm, không quan trọng các tổ chức này đạt được hiệu quả thế nào trong quản lý. Với cách làm này, các tổ chức công thường thiếu nhiệt huyết trong việc thực hiện chức trách của mình, thậm chí họ còn được phân phối nhiều nguồn lực hơn khi hiệu quả quản lý thấp hơn. Để khắc phục vấn đề này, quản lý công mới đòi hỏi phải dựa vào đầu ra để đo lường hiệu quả quản lý. Các nhà kinh tế cổ suý cho phương thức quản lý này lập luận rằng nếu nhà quản lý không biết được đầu ra của công việc, tức không xác định được họ làm được cái gì thì sẽ không thể biết được mình thành công hay thất bại. Kết quả là họ có thể cắt giảm chi phí đầu tư trong lĩnh vực công, nhưng không hiểu được liệu họ đang thực sự giảm các chi phí bị sử dụng lãng phí hay là đang cắt đi những chi phí đầu tư cần thiết để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Nếu nhà quản lý không nhận ra được đâu là thành công, những cơ quan, cá nhân làm tốt có thể không được khen thưởng, nhưng ngược lại các đơn vị, cá nhân đạt hiệu quả thấp có thể được tán dương. Vì vậy, quản lý công mới sử dụng đầu ra của công việc như là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả quản lý thay vì quan tâm đến đầu vào của công việc. Thứ hai: Đẩy mạnh phân cấp, tăng cường làm việc theo nhóm Các tổ chức, cá nhân ở vị trí cấp cao trong mô hình quản lý công truyền thống theo học thuyết quan liêu của Weber đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì nguyên tắc thứ bậc đòi hỏi việc quản lý phải tuân thủ theo luật định, các vị trí ở cấp thấp phải tuân thủ chặt chẽ sự chỉ đạo, hướng dẫn của người ở vị trí cao hơn. Mô hình quản lý này có lẽ phù hợp trong xã hội khi mà dòng chảy thông tin trong hệ thống tổ chức còn quá chậm, trình độ của đội ngũ công chức nhìn chung còn khá thấp. Tuy nhiên, nó cũng làm cho những người làm trong lĩnh vực công trở nên quá nặng nề, cứng nhắc, thiếu đi sự năng động, sáng tạo cần thiết để đảm bảo được hiệu quả quản lý. Quản lý công mới vì vậy đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền cho địa phương, cho các tổ chức, cá nhân ở vị trí thấp hơn trong tháp quản lý, nhất là cho các bộ phận tiếp xúc và trực tiếp làm việc với công dân. Sở dĩ như vậy là vì so với các nhà quản lý ở vị trí tốp đầu trong hệ thống, các nhà quản lý và những người làm việc ở cấp thấp được xem là linh hoạt hơn, phản ứng mau lẹ hơn đến sự thay đổi, đến nhu cầu của công dân, những người còn được gọi là khách hàng của các cơ quan Nhà nước. Thêm vào đó, những người làm việc ở địa phương, ở cấp thấp thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ công dân, nên họ hiểu được cái gì đang xảy ra, người dân thực sự cần cái gì, từ đó họ có thể cung cấp nhiều lời khuyên bổ ích cho các nhà quản lý cấp cao hơn để đưa các các quyết định hành chính một cách phù hợp, đúng đắn. Từ quan điểm này, quản lý công mới thúc đẩy sự phân cấp, phân quyền cho địa phương, cho cấp dưới và tăng cường khuyến khích làm việc theo nhóm để phát huy được ý kiến, trí tuệ của tập thể. Nhưng một khi những người làm việc ở cấp thấp được giao thêm quyền lực, những nhà quản lý ở cấp trung gian (middle manager) trở nên dư thừa, không cần thiết, vai trò của họ được ví như là những kẻ nhàn rỗi, ngồi chặn thông tin từ dưới lên cũng như từ trên xuống. Bởi vì điều này, ngoài việc tăng cường phân cấp, phân quyền và thúc đẩy làm việc theo nhóm, quản lý công mới còn đòi hỏi phải giảm hệ thống thứ bậc trong quản lý bằng cách bỏ đi những cấp trung gian không cần thiết. Thứ ba: Thúc đẩy cạnh tranh giữa các tổ chức công và tư trong việc cung cấp dịch vụ công Chính phủ của mô hình quản lý truyền thống cho rằng lĩnh vực công và tư là hoàn toàn khác nhau. Các doanh nghiệp nhà nước vì vậy luôn được ưu ái, độc quyền trong việc cung cấp các dịch vụ công và được sử dụng như một công cụ đắc lực, không thể thiếu để giúp nhà nước điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội. Ngược lại, quản lý công mới phản đối sự phân biệt này, lập luận rằng nền kinh tế luôn bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau, cả doanh nghiệp nhà nước, cũng như các tổ chức tư nhân và tổ chức từ thiện cùng hoạt động bình đẳng, phải cạnh tranh nhau trong việc cung cấp dịch vụ, cho nên sự phân biệt giữa doanh nghiệp công và tư nên bị loại trừ. Nói theo một cách khác là không có lý do gì để hạn chế sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp công và tư trong việc cung ứng dịch vụ, bởi vì sự cạnh tranh không chỉ làm giảm giá, nâng cao chất lượng dịch vụ, mà còn thúc đẩy các tổ chức công, doanh nghiệp công phải quan tâm hơn đến việc đáp ứng nhu cầu của công dân. Như vậy, Quản lý công mới hứa hẹn là một phương thức quản lý sẽ khắc phục được các hạn chế của quản lý công truyền thống và góp phần giúp nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành kinh tế - xã hội. Nguyễn Viết Vy Hành chính công là gì?Hành chính công là ngành hành chính chuyên ngành và liên quan đến các chính sách và chương trình công cộng, chức năng của chính phủ và cung cấp các dịch vụ khác nhau cho công chúng. Hành chính công là cả một ngành học và một hoạt động. Hành chính công như một ngành học hoặc lĩnh vực nghiên cứu bao gồm các môn học hoặc lĩnh vực nghiên cứu đa ngành như lập kế hoạch, ngân sách, tổ chức, nhân sự, kiểm soát, chỉ đạo và các khía cạnh lý thuyết khác liên quan đến việc thực hiện các chính sách và chương trình công cộng. Hành chính công bao gồm nhiều ngành khác nhau của chính phủ là hành pháp, lập pháp và tư pháp, và mối quan hệ của họ. Nó có các chi nhánh nghiên cứu như hành chính công tài chính, phát triển hành chính công vv. Là một hoạt động, Hành chính công thực hiện các chức năng khác nhau như quản lý các dịch vụ công cộng, dịch vụ an sinh xã hội, dịch vụ phúc lợi; quản lý các tổ chức chính phủ và chủ trương; quy định và kiểm soát hoạt động tư nhân và doanh nghiệp; và như thế. Hành chính công thường được thực hiện bởi bộ máy công quyền phi chính trị có tổ chức hoạt động trong khuôn khổ pháp lý và quy định được xác định rõ. Nó dựa trên các nguyên tắc đồng nhất, động lực phục vụ và kiểm soát bên ngoài và nó thường được thực hiện trên cơ sở liên tục. Mục lục
Định nghĩa theo các cách tiếp cậnSửa đổi
Nhiệm vụ của Hành chính côngSửa đổi
SO SÁNH HÀNH CHÍNH CÔNG VÀ HÀNH CHÍNH TƯ
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.83 KB, 8 trang ) Họ và tên: Lê Bảo Trân Đều có nhân sự để thực thi công vụ Đều có nguồn tài chính để thực thi nhiệm vụ Đều diễn ra hoạt động hành chính Ví dụ: Hoạt động khám, chữa bệnh của bệnh viện công và tư Hành chính công Hành chính tư Thủ tục và thể chế hành Khi đi khám, bênh nhân cần mang theo bảo hiểm chính y tế, giấy chứng minh nhân dân, sổ khám bệnh,… Tổ chức bộ máy để điều Có Ban Giám đốc điều hành hoạt động của bệnh hành công việc viện Mục tiêu Vì sức khỏe cộng đồng Nhiệm vụ Khám, chữa bệnh cho mọi người có nhu cầu Nhân sự thực thi công vụ Các y, bác sĩ, nhân viên của bệnh viện Nguồn tài chính để thực Viện phí, vốn đầu tư thi nhiệm vụ Hoạt động hành chính Bệnh nhân đến đăng ký khám chữa bệnh tại bàn hướng dẫn, sau đó bệnh nhân mới đến phòng khám theo đúng hướng dẫn 2. Khác nhau: Tuy nhiên, giữa hành chính công và hành chính tư cũng có những điểm khác nhau cơ bản mang tính nguyên tắc. Trước hết, để rõ hơn về sự khác nhau, cần nắm rõ khái niệm của hai loại hành chính như sau: - Hành chính công là sự tổng hòa các hoạt động quản lý của chính phủ, là sự quản lý và giám sát của các cơ quan quản lý công cộng, chủ yếu là chính phủ đối với công việc công cộng. Nó bao gồm hai mặt: Sự quản lý của chính phủ đối với công việc công cộng và sự quản lý của chính phủ đối với bản thân Như vậy, hành chính công là hoạt động quản lý của các tổ chức quản lý công (chủ yếu là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước) nhằm giải quyết các công việc công cộng và dịch vụ công cho xã hội. - Hành chính tư là hoạt động chấp hành và điều hành trong tổ chức theo những nguyên tắc nhất định nhằm đạt được mục tiêu của các tổ chức ngoài khu vực nhà nước. 2.1. Chủ thể Chủ thể của hành chính công là các cơ quan của Nhà nước, các cá nhân được ủy quyền và các chủ thể này có những đặc điểm là mang tính quyền lực Nhà nước, hoạt động rộng khắp trên các mặt của đời sống xã hội, quản lý thông qua các quyết định hành chính và hành vi hành chính. Còn chủ thể của hành chính tư có thể là cá nhân hay tổ chức đứng ra thành lập tổ chức đó, chủ thể này chỉ có quyền lực tổ chức, quyền quản lý trong phạm vi tổ chức, họ có thể quản lý tổ chức bằng nhiều biện pháp và hình thức mà pháp luật cho phép. Ví dụ: Chủ thể quản lý của hành chính công là: Cơ quan hành chính Nhà nước - Chính phủ và các cơ quan hành chính địa phương hoạt động trong tất cả các mặt của đời sống xã hội. Chủ thể quản lý của hành chính tư: Trong một công ty, chỉ quản lý mặt sản xuất kinh doanh mà mình đăng ký, chủ thể là giám đốc hay hội đồng quản trị của công ty đó. 2.2. Đối tượng tác động Đối tượng của hành chính công là toàn dân. Tùy vào phạm vi lớn nhỏ có thể chia thành 4 loại: - Công việc quốc gia – là những công việc hành chính thống nhất mang tính toàn quốc. Ví dụ: xây đường quốc lộ nối liền các tỉnh thành trong nước, giữ gìn biển đảo quốc gia,… - Cộng việc cộng đồng – là những công việc liên quan đến nhiều địa phương, nhiều tập đoàn lợi ích, vượt ra ngoài một khu vực hành chính, cần có sự hợp tác, điều hòa của nhiều phía. Ví dụ: giải quyết vấn đề cá chết ở các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế do nhiễm độc từ nước thải nhà máy thép,… Vấn đề này cần có sự chung tay của các tỉnh liên quan, cũng như Chính phủ thì mới có thể giải quyết được. - Công việc địa phương – là những công việc hành chính mang tính chất địa phương, thuộc thẩm quyền giải quyết của từng địa phương. Ví dụ: Chính sách bồi dưỡng nhân tài với Đề án 922 của thành phố Đà Nẵng dành cho nhân tài ở Đà Nẵng, sau khi được thành phố đào tạo, cấp học bổng để học tập thì sau khi hoàn thành các khóa học phải ở lại thành phố làm việc trong các cơ quan nhà nước ít nhất 7 năm. Như vậy, chỉ công dân Đà Nẵng, đặc biệt là những người có năng lực trí tuệ cao mới được hưởng ưu đãi này của thành phố, người dân ngoại tỉnh thì không ảnh hưởng. - Công việc công dân – là những công việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mà chính quyền phải đứng ra giải quyết. Ví dụ: Hai người yêu nhau thì chính quyền không can thiệp vào, nhưng khi hai người tiến tới hôn nhân thì phải đến UBND phường (xã) đăng ký kết hôn, khi đó, cuộc hôn nhân mới được cho là hợp pháp. Còn đối với hành chính tư, đối tượng tác động hẹp hơn, đối tượng tác động là các công việc cụ thể trong khuôn khổ một một tổ chức như quản trị nhân lực, quản, quản trị văn phòng,… Ví dụ: Đối với hành chính tư: Khi công ty ra quyết định cấm hút thuốc trong văn phòng, nơi công sở, thì chỉ có những nhân viên, người làm việc trong công ty đó mới phải tuân theo, những người ngoài không bị ảnh hưởng. 2.3. Phạm vi tác động Như đã nói ở phần 2.1. hành chính công hoạt động rộng khắp trên các lĩnh vực của xã hội, vì vậy phạm vi tác động của hành chính công cũng bao gồm mọi lĩnh vực của kinh tế - xã hội, phụ trách cung cấp các sản phẩm công cộng mang tính toàn quốc quốc phòng, ngoại giao, ngân hàng, đường sắt quốc gia, hoạch định chính sách và thể chế vĩ mô, cho đến cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công mang tính địa phương như hệ thống điện, đường, trường, trạm,… Còn hành chính tư, chỉ hoạt động trong một hay một số lĩnh vực nào đó nên phạm vi tác động cũng hẹp hơn so với hành chính công. Những vấn đề mang tính quốc gia như quốc phòng, ngoại giao, điện lưới quốc gia,… thì khu vực tư không thể hoặc không có khả năng làm được. Vì vậy, bắt buộc hành chính công phải làm, hành chính tư chỉ làm những công việc trong khả năng và được hành chính công chuyển giao. 2.4. Quy mô tổ chức Do phạm vi tác động của hành chính công mọi lĩnh vực xã hội và tác động dến toàn dân nên quy mô tổ chức của hành chính công rất lớn từ trung ương đến địa phương Còn hành chình tư chỉ có phạm vi trong tổ chức đó và chỉ ảnh hưởng trong phạm vi nhất định. Nhưng hành chính chính tư lại có quy mô linh hoạt, tùy vào từng tổ chức mà áp dụng quy mô. Ví dụ: Bộ máy Chính phủ là bộ máy đặc biệt về phạm vi, tầm cỡ, cũng như sự đa dạng trong hoạt động mà Chính phủ thực hiện, hơn nữa hoạt động của Chính phủ có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố. Tập đoàn Boeing là tập đoàn xuyên quốc gia tuy nhiên tính toàn bộ các cán bộ quản lý chỉ bằng 1/13 bộ công chức hành chính của Hoa Kỳ. 2.5. Tổ chức bộ máy Tổ chức bộ máy của hành chính công thì cồng kềnh, tầng nấc, thứ bậc, quan liêu. Ví dụ: Bộ máy hành chính Việt Nam gồm 2 cấp: cấp trung ương và cấp địa phương. Cấp trung ương có Chính Phủ, Bộ và cơ quan ngang Bộ; cấp địa phương có ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã và các cơ quan chuyên môn giúp việc cho UBND các cấp. Khi Đà Nẵng muốn xây dựng tòa nhà trung tâm hành chính thành phố, thì phải xin ngân sách Nhà nước, như vậy phải chờ Chính phủ phê duyệt, sau đó thông qua Bộ Tài chính chi ngân sách cho xây dựng. qua nhiều công đoạn nên thời gian chờ lâu. Tổ chức bộ máy của hành chính tư thì gọn nhẹ, linh hoạt, sát thực tế, hiệu quả. Ví dụ: Khi một công ty muốn chi tiền mua thiết bị đặt trong các phòng làm việc, chỉ cần trình lên giám đốc ký duyệt sẽ được cấp tiền mua ngay, tuy nhiên phải tùy vào khả năng tài chính, sự cần thiết của thiết bị, để tránh lãng phí. 2.6. Mục tiêu hoạt động Đặc điểm nổi bật của bất kỳ cơ quan hành chính công nào là hoạt động vì mục đích công cộng, lợi ích cộng đồng. Trong khi đó, mục tiêu chủ yếu của hành chính tư là lợi nhuận, phục vụ mọi người vì động cơ lợi nhuận. Một Chính phủ được thành lập ra, hoạt động vì mục đích quản lý chung cho xã hội, điều hòa lợi ích của cả cộng đồng, ngĩa là Chính phủ hoạt động vì lợi ích của cả đất nước chứ không vì một cá nhân hay tổ chức nào. Nhưng một công ty tư nhân lập ra, nó tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho cộng đồng người không phải vì lợi ích của người tiêu dùng hay của cộng đồng mà vì lợi nhuận do hoạt động này đem lại cho họ. Ví dụ: Trong việc xây dựng đường cao tốc hay đường quốc lộ, nếu chủ thầu xây dựng thuộc khu vực hành chính công thì không thu phí, nếu chủ thầu xây dựng thuộc khu vực tư, thì dự án xây dựng được đầu tư theo hình thức PPP nhưng dưới dạng hợp đồng BOT, tức đặt trạm thu phí, các xe ô tô, container phải đóng phí đường cao tốc, đường quốc lộ cho doanh nghiệp xây dựng đó khi qua các trạm thu phí. 2.7. Kỹ năng hành chính Do phạm vi rộng, công việc đa dạng, nên kỹ năng hành chính của hành chính công cũng đa dạng và rộng như tính chất của nó. Tuy nhiên, hành chính tư thì ngược lại, kỹ năng hành chính chuyên sâu. Kỹ năng hành chính cần có đối với nhà hành chính khu vực công lớn hơn rất nhiều so với nhà điều hành doanh nghiệp. Trong nền hành chính công kỹ năng lãnh đạo coi là kỹ năng cốt yếu trong điều hành doanh nghiệp lại là kỹ năng quản lý. Ví dụ: Khi tuyển nhân sự, khu vực công thường tuyển vị trí việc làm, cần có bằng đại học và những chứng chỉ cần thiết, và một viên chức có thể làm nhiều công việc cùng lúc như vừa làm công tác quản trị nhân sự, vừa phải làm các nghiệp vụ chuyên môn, vì vậy hiệu quả công việc không cao. Còn khu vực công thì tuyển người có năng lực, có chuyên môn đối với vị trí cần tuyển, mỗi người chỉ cần làm đúng chức năng của mình, công việc không bị sao nhãng, hiệu quả công việc cao. 2.8. Thủ tục hành chính Hành chính công có những thủ tục hết sức phức tạp, phải tuân theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định, không được phá bỏ, nó luôn luôn cứng nhắc, mang tính quan liêu, chậm chạp, hiệu quả hoạt động thấp. Còn Hành chính tư cũng phải tuân theo một số quy tắc nhưng nó lại mềm dẻo và linh hoạt hơn rất nhiều và thủ tục thì đơn giản và dễ dàng thực hiện. Ví dụ: Trong một phiên họp thường kỳ của Chính phủ, phải tổ chức tại một ngày nhất định trong tháng và phải do Thủ tướng chủ trì (hay uỷ nhiệm), trong phiên họp phải tuân theo các thủ tục nhất định không thể làm khác, không thể thay đổi, nhưng tại một công ty sản xuất kinh doanh thì các phiên họp có thể tiến hành bất cứ lúc nào, miễn là giải quyết tốt công việc của công ty, các thủ tục đơn giản, nếu cần thiết có thể bỏ qua nhiều công đoạn. 2.9. Tính chính trị Hành chính công vì tính chất chính trị của tổ chức, trong mọi hoạt động của mình Hành chính côngluôn mang màu sắc chính trị và bị các mục tiêu chính trị chi phối, gây ảnh hưởng . Nhưng hành chính tư lại không hề có màu sắc chính trị, nó hoạt động mà không hề bị tác động bởi một động cơ chính trị nào. Ví dụ: Chính phủ hoạt động trên những nguyên tắc, mục tiêu mà Đảng chính trị đã lập ra Chính phủ, nghĩa là hoạt động của Chính phủ phải nằm trong khuôn khổ đường lối của Đảng chính trị đề ra và luôn mang màu sắc chính trị. Ngược lại hình chính tư của một công ty chỉ bị chi phối bởi lợi nhuận, họ không bị đường lối chính trị của đảng nào lôi kéo, họ đứng bênlề của các mục tiêu chính trị, họ chỉ tuân thủ các mục tiêu của tổ chức mình đề ra và của pháp luật. 2.10. Nguồn lực 2.10.1. Tính quyền lực Hành chính công mang tính quyền lực Nhà nước, tính mệnh lệnh cưỡng chế rất cao. Hành chính tư không mang tính quyền lực Nhà nước tính cưỡng chế không cao. Ví dụ: Quyết định của Bộ trưởng và giám đốc của người đứng đầu một doanh nghiệp. Một được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, và có chế tài xử lý đối với hành vi chống đối, một đảm bảo bằng điều lệ doanh nghiệp. 2.10.2. Tài chính Hành chính công sử dụng mặt khối lượng lớn về vật chất và tài chính hoạt động nên sai sót của nó ảnh hưởng lớn đến kinh tế- xã hội. Tài chính hoạt động từ ngân sách Nhà nước, chủ yếu là nguồn thu từ thuế, lệ phí, doanh nghiệp nhà nước,… Hành chính tư sử dụng khối lượng nhỏ tài chính vật chất sai sót ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ, tài chính hoạt động tự có. Các tổ chức tư nhân hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu lợi nhuận rất cụ thể, rõ ràng; một số cơ quan Chính phủ có hoạt động thu lời thì mục tiêu cũng rất đa dạng. Hoạt động của các tổ chức sản xuất kinh doanh rõ ràng, có thể lượng hóa được thông qua lỗ hay lãi. Họ có thể điều chỉnh sản phẩm, phân công lao động và các vấn đề khác dựa trên nguyên tắc chi phí và kết quả. Trong khi đó, các cơ quan Nhà nước tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ về nguyên tắc không phải để bán trên thị trường. hoạt động được tài trợ bởi chính ngân sách nhà nước và trong nhiều trường hợp không thể so sánh giữa chi phí bỏ ra và giá trị dịch vụ đã được cung cấp. Ví dụ: Sự việc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam định mua 164 toa tàu cũ của Trung Quốc về sử dụng với giá dao động từ 255 triệu đồng đến 810 triệu 1 xe, nếu sự việc không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, ngân sách Nhà nước sẽ thất thoát một khoản lớn, đồng tiền sử dụng không được hiệu quả, gây lãng phí. Tập đoàn café Trung Nguyên đã từng phải mua lại chính cái tên Cà phê Trung Nguyên của mình với số tiền lớn do không tính toán đến rủi ro khi tập đoàn phát triển ra thế giới. Tuy nhiên, vụ việc chỉ ảnh hưởng đến tài chính của Trung Nguyên chứ không ảnh hưởng đến các tổ chức hay cá nhân khác. 2.10.3. Nguồn nhân lực Đội ngũ cán bộ, công chức là nguồn nhân lực chủ yếu của hành chính công. Đó là những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh. Còn người lao động là nguồn lực của hành chính tư. Họ là những người được tổ chức tư tuyển dụng theo các vị trí việc làm phù hợp với khả năng, năng lực mỗi người. STT Tiêu chí Hành chính công Hành chính tư 1 Chủ thể Cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công Tổ chức tư chức, viên chức 2 Đối tượng tác động Toàn dân 3 Phạm vi tác động Tất cả mọi lĩnh vực kinh Một số kĩnh vực nhỏ tế - xã hội 4 Quy mô tổ chức Rất lớn Nhỏ 5 Tổ chức bộ máy Cồng kềnh, tầng nấc, thứ bậc, quan liêu Gọn nhẹ, linh hoạt, sát thực tế, hiệu quả 6 Mục tiêu Phục vụ Nhà nước và nhân dân Lợi nhuận 7 Kỹ năng hành chính Đa dạng do công việc đa dạng, phạm vi rộng Kỹ năng chuyên sâu 8 Thủ tục hành chính Phức tạp Đơn giản 9 Tính chính trị Rõ nét, mức độ ảnh hưởng lớn Không rõ nét Quyền lực Nhà nước Không sử dụng quyền lực Nhà nước 10 Nguồn lực Ngân sách Nhà nước Đội ngũ cán bộ, công chức Thành viên trong tổ chức Tự hạch toán tài chính Người lao động trong tổ chức tự đảm nhận Có thể khái quát sự khác nhau giữa hành chính công và hành chính tư qua bảng sau: Dù là hành chính công hay hành chính tư thì đó đều là những biện pháp tổ chức và điều hành của các tổ chức, các nhóm, các đoàn thể hợp tác trong hoạt động của mình để đạt mục tiêu chung. Hành chính công theo cách tiếp cận của hành động là quá trình sử dụng nguồn lực công (tài lực, vật lực và nguồn nhân lực) có tổ chức và phối hợp để hoạch định, thực hiện và quản lý chính sách công. Hành chính công được đặc trung bởi bộ máy hành Nhà nước với quy mô rất lớn của các hoạt động. Hành chính công gắn liền chủ yếu tới việc làm cho pháp luật có hiệu lực, được thực thi; đưa ra và thực hiện các quy tắc, quy chế và thực hiện các chính sách công. Do đó hành chính công tương phản với hành chính tư. Việc so sánh hành chính công và hành chính tư cho thấy sự đánh giá sơ lược về hai hình thức hành chính, từ đó có thể nhận ra ưu nhược điểm, các đặc trưng quan trọng của từng hình thức hành chính. Mô hình hành chính tư, qua sự so sánh, bộc lộ rõ tính tối ưu, hoạt động hiệu quả hơn hành chính công. Vì vậy, hiện nay, hành chính công cũng đang dần thay đổi, hướng dần sang phục vụ thay vì cai trị như trước; công khai minh bạch hơn; thủ tục hành chính cũng đơn giản hơn rất nhiều; đánh giá đúng năng lực của cán bộ, công chức, hạn chế trường hợp “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”;… Đó là sự nổ lực lớn của khu vực công nhằm hoàn thiện thể chế hành chính của mình và hành chính vẫn đang trong quá trình cải cách để phù hợp với xã hội ngày càng phát triển hơn. |