Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Có lịch sử khoảng 500 năm tuổi, bức tranh Đám cưới chuột mang nội dung vừa hài hước, vừa châm biếm sâu xa. 

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Bức tranh hài hước ở chỗ, làm sao lại có con chuột đi rước dâu, lấy vợ? Người nghệ nhân dân gian dã thổi hồn vào bức tranh, nhân hóa loài chuột để chúng mang dáng dấp con người, cũng biết làm đám cưới, lấy vợ. Châm biếm ở chỗ, chú rể chuột kia muốn đón dâu lại phải mang chim, mang cá cống cho mèo. 

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Bức tranh dân gian Đông Hồ – Đám cưới chuột được in trên chất liệu giấy điệp (hay còn gọi là giấy dó)

Con mèo trong bức tranh đại diện cho tầng lớp thống trị, bóc lột trong xã hội xưa. Những chú chuột là hình ảnh ẩn dụ cho người nông dân lam lũ, thật thà, chất phác. Bức tranh không có chú thích gì. Nhưng bất cứ ai nhìn thấy cũng nhận ra sự ẩn dụ tinh tế của người nghệ nhân dân gian. Loài chuột vốn ranh ma, tinh quái, đa nghi, luôn cảnh giác với loại mèo – kẻ thù không đội trời chung, lại hóm hỉnh châm biếm mèo tham của hối lộ. Chính vì thế, bức tranh Đám cưới chuột ra đời nhằm châm biếm đả kích sâu sắc về chế độ phong kiến bất công, cổ hủ, thối nát, luôn chèn ép những người nông dân hiền lành “một nắng hai sương”.

Trong bức tranh đông hồ đám cưới chuột có bao nhiêu con vật?

Nhóm Chuột và Mèo: Bức tranh gồm có 12 con chuột và 1 con mèo

Nhóm con vật khác: Ngoài chủ đạo là chuột và mèo, thì bức tranh còn có những loài vật khác. Cụ thể: 1 con chim, 1 con cá và 1 con ngựa. 

Bức tranh được chia làm hai phần với 12 con chuột và một con mèo. Tầng trên là cảnh chuột dâng lễ cho mèo. Con mèo được vẽ ở góc tầng trên phía tay mặt, rất to, oai vệ đang đưa tay ra nhận lễ vật. Với bốn con chuột, con đi đầu hai tay dâng lên một con chim. Cong người, đuôi gập lại trông vẻ sợ sệt. Con thứ hai xách một con cá đang tiến theo sau. Mắt nhìn con mèo vẻ khép nép sợ sệt không kém gì con đầu. Hai con đi cuối thổi kèn nhưng ở tư thế đề phòng bất trắc, khi có chuyện là “vọt” nhanh.

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Tầng dưới là cảnh đón dâu với tám con chuột. Dẫn đầu là con chuột đực, đầu đội mũ cánh chuồn. Mình mặc áo thụng xanh, chân đi hia. Ngồi trên lưng con ngựa hồng, quay nhìn về sau vẻ mặt vênh lên tự đắc. Bởi vì đỗ tiến sĩ vinh quy lại cưới được vợ đẹp.

Theo hầu phía sau là một con chuột đen cầm lọng. Và một con chuột nửa đen nửa trắng cầm biển đề hai chữ “nghinh hôn”. Con cầm lọng vẻ nghiêm trang, con cầm biển thì tinh nghịch luôn quay đầu trở lại nhìn kiệu cô dâu.

Bốn con chuột khác thì khiêng kiệu, hai con đi trước nhìn thẳng về phía trước. Hai con đi sau thì quay nhìn lại phía sau. Cô dâu chuột ngồi trong kiệu cũng vấn khăn, mặc áo gấm xanh. Nhìn chồng đang cưỡi ngựa đi phía trước vẻ tự hào mãn nguyện.

Bố cục tranh đám cưới chuột

Điểm đặc biệt của bố cục bức tranh Đám cưới chuột của làng tranh Đông Hồ đó là bố cục tranh theo tuyến tính tròn (hoặc tuyến tính hình chữ U nằm ngang). Nó vừa như một câu chuyện kể có tính nối tiếp (từ chỗ đám chuột đi cống mèo đến đi đón dâu), vừa thể hiện một vòng tuần hoàn của lẽ sống. Theo họa sỹ Lê Quốc Việt, tác giả cuốn sách Nghệ thuật Đồ họa cổ Việt Nam, tuyến tính chữ U này là một vòng tròn khép kín, một tuyến tính rất thanh bình yên ả, rất ngay ngắn và quy củ. Vòng tròn hoàn mỹ đó đã góp phần nói lên nội dung tư tưởng của bức tranh.

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Chuột ôm Namecard do Golden Gift Việt Nam chế tác chào đón năm Canh Tý 2020

Nói về không gian xoay vòng này, họa sỹ, nhà phê bình Phan Cẩm Thượng, đồng tác giả cuốn sách Nghệ thuật Đồ họa cổ Việt Nam cho biết: “Tranh dân gian Việt Nam nói chung đều sử dụng không gian hai chiều, tức là không có chiều sâu thứ ba. Có hai loại không gian được áp dụng là thấu thị phi điểu (tức là nhìn như con chim bay trên trời nhìn xuống đất). Loại thứ hai là thấu thị tẩu mã (tức là nhìn như ngồi trên lưng ngựa mà thấy cảnh vật dàn trải sau lưng). Bức tranh Đám cưới chuột dùng lối không gian dàn trải thứ hai này”.

Theo Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam cho biết: Bố cục tranh Đông Hồ chặt chẽ đến mức, ông từng thử bỏ một vài chi tiết nhằm tạo sự mới mẻ cho tranh nhưng người xem vẫn yêu thích các bức nguyên bản hơn.

Ý nghĩa Tranh đám cưới chuột Đông Hồ trong dân gian

Với hai tuyến nhân vật là chuột và mèo cùng đợc xây dựng chung trong một bức tranh, tùy từng góc nhìn mà ý nghĩa tranh đám cưới chuột Đông Hồ có thể được hiểu dưới 3 góc độ như:

Bức Tranh đám cưới chuột phản ánh nét văn hóa dân tộc

Bức tranh đám cưới chuột sử dụng màu sắc chủ đạo như đỏ, xanh, vàng, hiện lên khung cảnh đám cưới rực rỡ, nhộn nhịp. Mặt khác với nhân vật mèo, dù chuột có thể là kẻ thù “không đội trời chung” của nó, song mèo vẫn tỏ vẻ hài lòng, tán đồng ngày lễ lớn của đôi vợ chồng trẻ.

Qua tranh, ở phía tích cực bạn có thể nhận thấy một phần bản sắc văn hóa Việt Nam thời xưa. Ứng với các hình ảnh tượng hình, tượng thanh như ô, lọng, khèn, đoàn rước dâu kéo dài… Tranh đám cưới chuột khiến người ta nhớ lại những ngày tháng. Khi đám cưới không còn chỉ là việc riêng của một cá nhân, một gia đình. Mà nó còn là công việc trọng đại của một xóm làng, một xã hội thu nhỏ.

Bức tranh thể hiện ý nghĩa cộng sinh phát triển

Ngoài phản ánh nét văn hóa dân tộc thì sự cộng sinh cùng nhau phát triển cũng là một trong những ý nghĩ lớn mà tranh đông hồ đám cưới chuột hướng tới. Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh, thuộc Viện Nghiên Cứu văn hóa thì hình ảnh chuột mang lễ vật đến dâng tặng cho mèo còn có ý nghĩa: tôi muốn tồn tại thì anh cũng cần phải tồn tại và tôi hạnh phúc thì anh cũng phải được hưởng niềm vui ấy. Đây như một bản thỏa thuận ngầm về sự sinh sôi giữa hai mặt đối lập, mà ở đó đích đến cuối cùng của nó đều là sự cam kết cùng nhau tồn tại, cùng nhau phát triển.

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm “ Đám cưới chuột” được vẽ trên loại giấy Điệp.

Đáp án B

Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm dưới đây !

Số câu hỏi: 40

Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ[1][2][3], là một dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).[1][4][5] Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới.

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Đám cưới chuột

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Lợn ỷ có xoáy Âm dương

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Tranh "Đàn gà" hoặc "Sân gà" cầu chúc cho sự sung túc, đông con và an nhàn

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Tranh "Nhân nghĩa", với hình ảnh ‘‘Em bé trai ôm con cóc’’

Tranh Đông Hồ nổi tiếng với tác phẩm Đám cưới chuột được vẽ trên loại giấy nào

Vinh hoa, với ý nghĩa tượng trưng cho ước muốn hiển đạt với đủ đức hạnh quân tử như nhân, nghĩa, tín, dũng và văn võ song toàn

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia.[6] Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh và các cơ quan chuyên môn tiến hành nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học cho Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ để đệ trình UNESCO đề nghị công nhận Di sản văn hóa phi vật thể.[7][8]

Thơ Tú Xương có tranh Đông Hồ về ngày Tết là:

Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột Loẹt lòe trên vách bức tranh gà

Đó cũng là lí do để chứng minh rằng tranh gỗ dân gian Đông Hồ rất phổ biến.

Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ dán (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó.[9] Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh của những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, cũng có thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy điệp.[3]

Màu sắc được sử dụng trong tranh Đông Hồ là màu tự nhiên:[10][11] màu đen lấy từ than gỗ xoan, rơm nếp hay than lá tre được ngâm kĩ trong chum vại vài tháng rồi mới sử dụng được; màu xanh lấy từ gỉ đồng hay lá chàm – lá ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, họ thường dùng để nhuộm quần áo; màu vàng lấy từ hoa giành giành, hoa hòe – loài hoa về mùa hè người ta vẫn dùng để sắc nước uống thanh nhiệt; màu đỏ lấy từ gỗ vang và sỏi son trên núi Thiên Thai; màu trắng lấy từ điệp. Những chất màu thô này được trộn với nhau và hoà với một lượng bột nếp trước khi in để tạo một lớp hồ, làm cho giấy tranh cứng hơn sau khi phơi khô.

Ván khắc in tranh có hai loại: ván in nét và ván in màu. Ván in nét thường được làm từ gỗ thị hoặc gỗ thừng mực.

Gỗ thị có thớ đa chiều, vừa mềm, dễ khắc. Dụng cụ khắc ván là những mũi đục hay còn gọi là bộ ve, được làm bằng thép cứng. Mỗi bộ ve có khoảng 30-40 chiếc.[3] Ván in màu được làm bằng gỗ mỡ bởi vì khi phết màu nên để in tranh gỗ mỡ có khả năng giữ màu cao hơn nhiều loại gỗ khác.

Về thể loại, dựa vào nội dung chủ đề, có thể chia tranh Đông Hồ thành bảy loại chính, gồm tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt.[2][3]

 

Tranh Lợn đàn ở nhà nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam

Tranh Đông Hồ rất gần gũi với đại đa số dân chúng Việt Nam, nhắc đến hầu như ai cũng đều biết cả. Tranh Đông Hồ gần gũi còn vì hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn trong chương trình giáo dục phổ thông. Ngày nay tục lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một, làng tranh cũng thay đổi nhiều: làng Đông Hồ ngày nay có thêm nghề làm vàng mã. Nghề giấy dó ở làng Yên Thái (Bưởi, Tây Hồ) cũng đã không còn. Tuy vậy, tranh Đông Hồ vẫn đóng vai trò như một di sản văn hóa, một dòng tranh dân gian không thể thiếu.

Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường", màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại màu công nghiệp, các bản khắc mới có bản không được tinh tế như bản cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa là một số bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nôm) bên cạnh phần hình của tranh khiến tranh ít nhiều bị què cụt về mặt ý nghĩa. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này ước đoán là:

  1. Thời kỳ sau năm 1945, chữ Hán và chữ Nôm bị chính quyền coi là phong kiến lạc hậu, liệt vào danh mục bài xích nên thợ in đục bỏ cho đỡ phiền nhiễu.
  2. Thế hệ sau này không phải ai cũng đọc và hiểu được các ký tự ấy nên tự ý bỏ đi.
  3. Cũng do không đọc hiểu được nên các ván khắc truyền lại "tam sao thất bản", đến mức còn lại các ký tự nhưng không đọc được ra chữ gì.

Về nội dung tranh, lưu ý rằng có sự gần gũi nhất định giữa nội dung tranh khắc gỗ màu của Việt Nam với của Trung Quốc, có những tranh mà cả hai nước đều có, song tranh Đông Hồ phát triển thành một hướng riêng tồn tại nhiều thế kỷ và được thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam.

 

Ván khắc tranh Đánh ghen (âm bản) ở nhà nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, làng tranh Đông Hồ

 

Ván khắc tranh Chăn trâu thổi sáo ở nhà nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam làng tranh Đông Hồ

 

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế (người ngồi bên trái), làng tranh Đông Hồ

Làng tranh Đông Hồ xưa là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh,[12] cách Hà Nội chừng trên 25 km.[13] Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi đơn thuần là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ.

Quanh năm rất nhiều khách du lịch trong ngoài nước đến làng tranh Đông Hồ thăm và mua tranh Đông Hồ làm kỷ niệm. Một số khách sạn, nhà hàng từ Hà Nội, [Thành phố Hồ Chí Minh] cũng về đây đặt những bức tranh khổ lớn để trang trí cho cách phòng khách, hoặc phòng ăn lớn. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ đường gần nhất du khách thường đi là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành-Bắc Ninh) là đến phố Hồ-huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ dẫn đường xuống làng Đông Hồ.

Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái.[14] Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại mấy câu ca rằng:

Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về làng Mái với anh thì về Làng Mái có lịch có lề Có sông tắm mát có nghề làm tranh.

Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, đó là ý trong câu "Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa.

Còn "làng Mái có lịch có lề" thì nghĩa là gì? Tục ngữ Việt Nam có câu: giấy rách phải giữ lấy lề. Chữ "lề" ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức của người xưa, rất trọng danh dự, khí tiết. Còn dân làng Mái, dân nghệ thuật rất trọng lời ăn tiếng nói. Không như nhiều làng quê khác, người dân làng Hồ, nhất là phụ nữ, ăn nói rất lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng kể cả từ xưa, rất hiếm khi trong làng có tiếng người mắng chửi nhau.

Do công nghệ phát triển, tranh dân gian làng Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều như trước. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh[1]. Nhưng đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề làm vàng mã. Hiện nay chỉ còn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam cùng con cháu là theo nghề tranh, gìn giữ di sản tranh Đông Hồ.[15]

Ngày xưa, làng Đông Hồ có chợ tranh tấp nập dịp tháng Chạp (tháng 12 Âm lịch) với 5 phiên chợ vào các ngày 6, 11, 16, 21, 26.[3] Trong mỗi phiên chợ có hàng nghìn, hàng triệu bức tranh các loại được mang ra bán cho lái buôn, hoặc bán lẻ cho các gia đình mua về làm tranh treo Tết để mang phú quý, vinh hoa cho nhà mình. Sau phiên chợ tranh cuối cùng (26/12 Âm lịch) những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất chờ đến mùa tranh năm sau mang ra chợ bán.[1]

Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng vào 3 âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:

Hỡi anh đi đường cái quan Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu Mua tờ tranh điệp tươi màu Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.
  • Tranh Hàng Trống
  • Tranh thờ Đạo Giáo
  • Mỹ thuật dân gian Việt Nam
  • Khắc gỗ
  • Tranh ghép
  • Tranh Kim Hoàng
  • Tranh làng Sình
  • Tranh lụa

  1. ^ a b c d Châu Anh (3 tháng 2 năm 2019). “Làng tranh Đông Hồ xưa và nay”. Dân Sinh. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  2. ^ a b Theo thegioidisan.vn (10 tháng 11 năm 2017). “Tranh dân gian Đông Hồ”. Dân tộc và Miền núi. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  3. ^ a b c d e Phương Anh (12 tháng 8 năm 2019). “Tranh dân gian Đông Hồ: Dung dị, độc đáo”. Báo Hải Dương. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2021.
  4. ^ Rachel Tran (17 tháng 2 năm 2020). “Dong Ho Painting - Vietnamese Folk Painting”. Vietnam Discovery Travel (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  5. ^ “Vietnamese Fine Arts: Dong Ho Folk Painting”. www.vietnamonline.com. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  6. ^ Thanh Thương (17 tháng 3 năm 2013). “Tranh Đông Hồ nhận bằng di sản văn hóa Quốc gia”. Vietnamplus. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  7. ^ VNP/VNA. “Dong Ho painting – art of daily life”. VietNamNet (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  8. ^ “Reviving the Dong Ho folk painting craft”. VietNamNet (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  9. ^ Phuong Hien (28 tháng 9 năm 2017). “Dong Ho painting - traditional color”. Tạp chí Du lịch (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  10. ^ “Exploring how to make a Dong Ho painting”. Welcome Vietnam Tour JSC (bằng tiếng Anh). 25 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  11. ^ Nguyễn Thị Thanh Hiền (12 tháng 8 năm 2016). “Tìm hiểu về dòng tranh dân gian Đông Hồ”. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  12. ^ Lan Anh (1 tháng 9 năm 2016). “Dong Ho folk paintings”. VOV World (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  13. ^ Bach Yen (13 tháng 2 năm 2018). “"Dong Ho" paintings”. Vietnam Law and Legal Forum. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  14. ^ Thy Vân (20 tháng 7 năm 2018). “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ: Đường đến di sản cần được bảo vệ khẩn cấp”. Đại đoàn kết. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  15. ^ Tuoi Tre News (22 tháng 12 năm 2020). “Introducing one of the last-standing practitioners of Dong Ho folk painting in Vietnam”. Tuoi Tre News (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.

  • Tranh Đông Hồ Lưu trữ 2013-03-06 tại Wayback Machine
  • Nghề làm tranh Đông Hồ là di sản quốc gia Lưu trữ 2013-03-21 tại Wayback Machine
  • Tranh Đông Hồ đôi khi vẫn cần cho con người hiện đại Lưu trữ 2014-02-22 tại Wayback Machine
  • Lập hồ sơ cho Nghề làm tranh Đông Hồ
  • Tranh Đông Hồ trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
  • Chùm ảnh: Hồn Tết xưa trong tranh Đông Hồ, báo Giáo dục Việt Nam, 03/01/12
  • Tranh dân gian Đông Hồ tại Cục Di sản Văn hoá, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tranh_Đông_Hồ&oldid=68569162”