Điều trị Basedow ở phụ nữ cho con bú

Điều trị Basedow ở phụ nữ cho con bú

Ảnh minh họa

Chào bạn,

Propylthiouracil (PTU) điều trị tăng năng tuyến giáp để chuẩn bị phẫu thuật hoặc điều trị iod phóng xạ và xử trí cơn nhiễm độc giáp.

Propylthiouracil bài tiết vào sữa mẹ. Vì có khả năng gây tác dụng không mong muốn cho trẻ nhỏ bú mẹ, nên các nhà sản xuất khuyến cáo chống chỉ định propylthiouracil với phụ nữ cho con bú. Tuy nhiên, theo Hội Nhi Khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics), tác động của PTU đối với trẻ thường rất thấp và không có ý nghĩa lâm sàng, PTU vẫn có thể sử dụng cho phụ nữ đang cho con bú.

Theo Hiệp hội Tuyến giáp Hoa Kỳ (American Thyroid Association), phụ nữ cho con bú nếu sử dụng liều đến 300 mg/ngày chia nhiều lần thì vẫn an toàn với trẻ bú mẹ. Để hạn chế sự tiếp xúc của thuốc với trẻ bú mẹ, nên uống thuốc sau khi cho con bú, và cho trẻ bú lại 3 – 4 giờ sau khi uống thuốc.

Giám sát tình trạng sức khỏe của cả bà mẹ và trẻ bú mẹ vẫn được khuyến khích khi mẹ điều trị với PTU, ít nhất 3 – 4 tuần sau khi cho con bú.

Vậy để đảm bảo an toàn cho sức khỏe của bé, bạn nên liên hệ với bác sĩ điều trị để được tư vấn và theo dõi.

Chúc bạn sức khỏe,

Th.S Dược Trần Thị Lạc Diệp/ Hasan - Dermapharm

AloBacsi.vn - nơi bạn có thể trò chuyện, chia sẻ mọi thắc mắc với bác sĩ chuyên khoa.

AloBacsi.vn giúp bạn giải đáp 1.001 thắc mắc về sức khỏe.
Mọi thắc mắc về sức khỏe gửi đến email: .

Bạn đọc có thể ghi kèm số điện thoại để bác sĩ liên hệ khi cần thiết.
Để chính xác về nội dung cần hỏi, bạn đọc vui lòng gõ có dấu (font chữ Unicode).

Chân thành cảm ơn.

Bệnh Basedow là một dạng cường giáp phổ quát nhất hiện nay. Tình trạng này có thể dễ tái phát hoặc có những tiến triển nghiêm trọng hơn đối với phụ nữ sau sinh và đang trong giai đoạn cho con bú. Những trường hợp bệnh nhân cần điều trị Basedow khi cho con bú, cần phải tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ để kiểm soát được bệnh và không gây ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.


Bệnh basedow và những hệ lụy kèm theo mà không phải ai cũng biết!

1. Cường giáp và những nguy cơ với phụ nữ mang thai 

1.1. Thế nào là tình trạng cường giáp

Tuyến giáp nằm ở phía trước cổ, có hình cánh bướm. Đây là tuyến nội tiết đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng đối với cơ thể. Tuyến giáp đóng vai trò trong việc điều tiết quá trình đồng hóa và dị hóa của cơ thể, sử dụng năng lượng và đảm bảo các cơ quan như não, tim,… được hoạt động nhịp nhàng, ổn định. 

Bệnh cường giáp trong thai kỳ có thể gây ra nhiều rủi ro sức khỏe


Khi tuyến giáp sản xuất quá nhiều hormone thyroxin và triiodothyronin khiến cho quá trình trao đổi chất diễn ra một cách nhanh chóng bất thường được gọi là tình trạng cường giáp. Một số triệu chứng của bệnh nhân mắc bệnh cường giáp là tình trạng khó ngủ, tăng nhịp tim, không chịu được nóng, thay đổi tâm lý, hay cáu gắt, mệt mỏi, tuyến giáp to bất thường, bệnh nhân ăn uống đầy đủ nhưng vẫn bị sụt cân. 

1.2. Mối quan hệ giữa bệnh cường giáp và phụ nữ mang thai

Phụ nữ có thai bị Basedow không phải hiếm gặp, các triệu chứng của bệnh khiến cho thai phụ mệt mỏi nhiều hơn và đôi khi bị nhầm lẫn với triệu chứng của nghén. Ngoài ra những thai phụ bị tăng hCG một cách bất thường cũng có thể là lý do dẫn đến cường giáp. 

Khi mắc bệnh cường giáp trong thai kỳ, bệnh nhân có thể phải đối mặt với nhiều rủi ro sức khỏe, đặc biệt là tình trạng tiền sản giật. Bên cạnh đó là nguy cơ suy tim, nhiễm độc giáp cấp. 

Thai nhi có thể chậm phát triển, mắc những dị tật bẩm sinh, nguy cơ sinh non hoặc thậm chí thai chết lưu. Khi người mẹ sử dụng thuốc cường giáp trong thai kỳ, tác dụng của thuốc có thể đi qua nhau thai và có những ảnh hưởng nhất định đến sức khỏe của thai nhi, đặc biệt tác động không tốt đến chức năng tuyến giáp, có thể gây bệnh cường giáp ở trẻ sơ sinh;

Ở 3 tháng cuối của thai kỳ, tình trạng bệnh có thể được làm tốt lên, tuy nhiên, sau khi sinh con, phụ nữ có thể bị tái phát bệnh và mức độ bệnh còn có thể trở nên nghiêm trọng hơn nhiều. 

1.3. Phương pháp điều trị cường giáp thai kỳ

Việc điều trị cường giáp trong quá trình mang thai là rất quan trọng. Thai phụ cần tuân theo chỉ định của bác sĩ. Thông thường với những bệnh nhân ở mức độ nhẹ, nghĩa là nồng độ hormone tăng nhẹ và không có những biểu hiện nghiêm trọng, thì bệnh nhân có thể chưa cần phải điều trị mà chỉ cần theo dõi. 

Mẹ bầu có thể được chỉ định dùng thuốc kháng giáp tổng hợp PTU để tránh tối đa nguy cơ gây suy giáp cho thai nhi

Những trường hợp bệnh nặng, bệnh nhân có thể được điều trị bằng thuốc. Loại thuốc thường được chỉ định là thuốc kháng giáp tổng hợp PTU để tránh tối đa nguy cơ gây suy giáp cho thai nhi, đồng thời mẹ cũng cần được theo dõi chặt chẽ. 

Trong trường hợp bệnh nhân ở mức độ nặng nhưng lại bị dị ứng với thuốc thì có thể tính đến phương án phẫu thuật. Nhưng cần phải cân nhắc cẩn thận vì rất có thể thủ thuật gây mê trong phẫu thuật có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của thai phụ và bệnh nhi. 

Những phụ nữ mang thai không nên được điều trị bằng iốt phóng xạ vì có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng tuyến giáp của thai nhi. 

2. Phương pháp điều trị Basedow khi cho con bú

Trước hết, những phụ nữ sau sinh cần được thăm khám và theo dõi chức năng tuyến giáp vì sau sinh, tình trạng bệnh rất dễ tái phát, đồng thời có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng. 

 Điều trị Basedow khi cho con bú bằng thuốc kháng giáp PTU, trẻ vẫn có thể bú mẹ bình thường 

Thông thường, phụ nữ sẽ cần được tăng liều thuốc kháng giáp trong thời điểm này. Thời gian điều trị bệnh là khá dài, bệnh nhân cần kiên trì theo phác đồ điều trị của bác sĩ. Những trường hợp bệnh nhân điều trị bằng thuốc kháng giáp PTU thì vẫn có thể cho con bú vì loại thuốc này gắn với protein máu cao, đồng thời ít qua đường sữa mẹ hơn so với những loại thuốc điều trị cường giáp khác. Trong trường hợp bệnh nhân sử dụng những loại thuốc khác thì cần phải kiêng cho con bú để tránh trường hợp thuốc đi qua đường sữa mẹ và gây tác động xấu đến sức khỏe của bé. 

Do thời gian sau sinh, các bà mẹ thường rất mệt mỏi và quá bận rộn nên có thể chủ quan, không chú trọng đến việc theo dõi chức năng tuyến giáp, nên bệnh có thể tiến triển xấu đi một cách nhanh chóng. Trên thực tế, rất nhiều phụ nữ đã được nhập viện trong tình trạng sức khỏe rất xấu do tình trạng cường giáp gây ra. 

Vì thế lời khuyên cho phụ nữ sau sinh là không được chủ quan và cần phải tuyệt đối tuân thủ theo những chỉ dẫn dùng thuốc của bác sĩ, tuân thủ thăm khám sức khỏe định kỳ. Phụ nữ sau sinh cũng không nên lạm dụng thuốc vì nếu uống thuốc quá liều có thể chuyển sang tình trạng suy giáp ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sức khỏe. Bên cạnh đó, các bà mẹ cũng cần chú ý nhiều hơn đến chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, hạn chế lo lắng quá mức, hãy để tinh thần luôn được thoải mái, vui vẻ để kiểm soát bệnh. 

3. Phương pháp phòng ngừa rối loạn tuyến giáp cho phụ nữ sau sinh

Để phòng ngừa tốt bệnh rối loạn tuyến giáp, đặc biệt là tình trạng cường giáp sau sinh, phụ nữ có thể tham khảo một số gợi ý dưới đây: 

Chăm chỉ tập thể dục để làm tốt lên sức khỏe và phòng ngừa nhiều loại bệnh, nhất là rối loạn tuyến giáp. Nên bắt đầu từ những bài tập nhẹ nhàng sau đó có thể tăng mức độ tập, tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của bản thân. 


Phụ nữ sau sinh cần chăm chỉ tập thể dục để làm tốt lên sức khỏe

Nên áp dụng chế độ ăn nhiều dinh dưỡng, đặc biệt là các loại trái cây, ngũ cốc và thịt nạc,…

Không thức khuya và ngủ đủ giấc

Hạn chế ăn thực ăn nhiều i ốt như các loại hải sản hay các chế phẩm từ sữa như kem, bơ, sữa chua,...

Điều trị Basedow khi cho con bú muốn có hiệu quả tốt nhất thì cần tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ và bệnh nhân cũng cần thăm khám định kỳ theo lịch hẹn, tránh chủ quan để xảy ra những biến chứng khó lường. 

Nếu chị em cần tìm hiểu thêm về căn bệnh này cũng như những vấn đề sức khỏe khác, có thể liên hệ Tổng đài Sổ tay bác sĩ điện tử của Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC để được bác sĩ chuyên khoa giải đáp.

SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG GIÁP TRẠNG

TRONG THỜI KÌ CHO CON BÚ

BS Nguyễn Thị Giang, BS CKII Nguyễn Thị Hồ Lan, BS Nguyễn Mạnh Hà

                Khoa Nội Chung- Bệnh viện Nội tiết Trung ương

SUMMARY

Antithyroid drugs (ATD) are widely used for the treatment of Graves’ disease (GD) in the general population. Over the past decade there has been an increasing awareness that several disturbances of thyroid function may occur in mothers after delivery which may be more prevalent than previously appreciated. Exacerbation of immune reactions occurs 3–12 month following delivery. Management of hyperthyroidism during lactation requires special considerations and should be implemented to prevent any adverse outcomes in mother and neonate. Continuation of breastfeeding is safe and should be encouraged in hyperthyroid mothers taking ATDs, whether these are ATDs being continued after gestation or indeed ATD treatment initiated in the postpartum period. Given PTU hepatotoxicity concerns, experts currently recommend using low-to-moderate MMI doses as a first-line therapy in lactating mothers. PTU should be reserved only as a second-line agent for cases of severe hyperthyroidism (thyroid storm) and allergic reactions to previous MMI treatment. ATD should be administered in divided doses immediately following each feeding. Evaluation of thyroid function tests is advisable at least 3–4 weeks after initiation of breastfeeding.

TÓM TẮT

Thuốc kháng giáp trạng được sử dụng rộng rãi để điều trị bệnh basedow trong dân số nói chung.Trong hơn một thập kỷ qua, người ta thấy rối loạn chức năng tuyến giáp rất hay gặp ở bà mẹ sau khi sinh so với đánh giá trước đây. Các phản ứng miễn dịch trong cơ thể diễn ra mạnh mẽ sau sinh 3 – 12 tháng. Quản lý cường giáp trong thời kỳ cho con bú cần được đánh giá và cân nhắc một cách cẩn thận và nên được thực hiện để ngăn ngừa tác dụng bất lợi cho mẹ và trẻ sơ sinh. Tiếp tục cho con bú là an toàn và nên được khuyến khích ở bà mẹ cường giáp đang sử dụng thuốc kháng giáp trạng, cho dù  là những thuốc kháng giáp trạng  đang được sử dụng trước đó trong khi mang thai hay bắt đầu điều trị kháng giáp trạng tổng hợp  trong giai đoạn sau sinh. Do tác dụng gây viêm gan nhiễm độc của PTU. Các chuyên gia khuyên nên sử dụng liều MMI từ thấp đến trung bình ở các bà mẹ đang cho con bú. PTU chỉ được lựa chọn trong các trường hợp cường giáp nghiêm trọng (cơn bão giáp) hoặc bệnh nhân dị ứng với MMI trước đó. Thuốc kháng giáp trạng nên được chia liều sử dụng ngay sau mỗi bữa ăn. Xét nghiệm chức năng tuyến giáp được thực hiện ít nhất 3 – 4 tuần sau khi bắt đầu cho con bú.

Từ khoá: cho con bú; cường giáp; thuốc kháng giáp trạng tổng hợp

Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Mạnh Hà

Ngày nhận bài: 01/4/2019

Ngày phản biện khoa học: 16/4/2019

Ngày duyệt bài: 30/4/2019

1.Cho con bú và chức năng tuyến giáp

Cho con bú là con đường tự nhiên cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ sơ sinh, cần cho sự phát triển và trưởng thành. Những trẻ sơ sinh được bú mẹ hoàn toàn trong ít nhất 6 tháng  thì ít mắc bệnh đường tiêu hóa hơn trẻ sơ sinh bú sữa mẹ không hoàn toàn trong 3 hoặc 4 tháng [1]. Do có những lợi ích cho trẻ sơ sinh, bao gồm dinh dưỡng, bảo vệ chống lại bệnh truyền nhiễm và miễn dịch, thúc đẩy sự phát triển và tâm lý gắn bó mẹ con. Việc tiếp xúc với thuốc kháng giáp qua sữa mẹ có khả năng gây ra các tác dụng phụ hoặc có những ảnh hưởng bất lợi đến trẻ sơ sinh. Mặc dù vậy, thuốc kháng giáp trạng vẫn được coi là một liệu pháp cốt lõi trong việc điều trị cường giáp ở bà mẹ cho con bú (Figure 1).

2. Quản lý tình trạng cường giáp trong thời kì cho con bú

Thuốc kháng giáp trạng, thionamides gồm propylthiouracil (PTU) và methimazole (MMI). MMI được sử dụng phổ biến ở Châu Âu, Châu Á và Hoa Kì. Một số nơi, carbimazole (CBZ), một loại tương tự methimazole thì được sử dụng ở Vương quốc Anh và thuộc địa trước đây của Anh [2]. Tác động chính của chúng là ức chế tổng hợp hormone tuyến giáp thông qua việc gắn vào men peroxydase: ức chế cạnh tranh gắn iode vào peroxydase) [2].

Trước đây, thuốc kháng giáp trạng không được sử dụng trong thời kì cho con bú  do những lo ngại về nồng độ thuốc trong sữa mẹ có thể gây ra tác dụng bất lợi cho tuyến giáp của trẻ [3,4]. Tác động của các thuốc kháng giáp trạng thế hệ mới đã được nghiên cứu từ những năm 1980. MMI và PTU, được hấp thu nhanh từ đường tiêu hóa. Tác dụng kháng giáp trạng có hiệu lực kéo dài 12 – 24h đối với PTU và dài hơn đối với MMI. Vì vậy MMI chỉ cần uống 1 lần 1 ngày và PTU chia liều từ 2 – 3 lần/ngày. MMI chủ yếu là ở dạng tự do trong huyết thanh, trong khi 80% đến 90% PTU gắn với albumin [2]. Khi sử dụng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp như là một lựa chọn đầu tay cần cân nhắc lợi ích và nguy cơ của liệu pháp điều trị triệt để khác như liệu pháp iod phóng xạ hay phẫu thuật. Những bà mẹ vẫn muốn tiếp tục cho con bú thì sử dụng thuốc kháng giáp trạng vẫn là ưu tiên hàng đầu trong  điều trị (Figure1).

PTU vào sữa mẹ với lượng rất nhỏ (0,025%), (tỷ lệ sữa – huyết tương: 0.1) [5]. Lượng MMI bài tiết vào sữa bằng với nồng độ MMI huyết tương, (tỷ lệ sữa-huyết tương: 1.0) với sự bài tiết trung bình vào sữa mẹ trong khoảng thời gian 8 giờ tương đương với 0,1- 0,17%  liều dùng đường uống [6]. Nồng độ MMI huyết thanh ở trẻ sơ sinh < 0,03 mg/mL 2 giờ sau khi uống MMI của người mẹ, thấp hơn nhiều so với liều điều trị [7].

Do nồng độ trong sữa thấp hơn, trong nhiều thập kỷ, PTU là thuốc được lựa chọn điều trị cường giáp cho người mẹ trong thời gian cho con bú [8]. Cả hai loại thuốc đều xuất hiện trong sữa mẹ (MMI nhiều hơn PTU) nhưng ở nồng độ thấp. Các nghiên cứu lâm sàng ở trẻ bú mẹ đã cho thấy chức năng tuyến giáp bình thường và sự phát triển trí tuệ bình thường khi người mẹ sử dụng thuốc kháng giáp trong thời gian cho con bú [9,10]. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng khi sử dụng MMI (liều tối đa 20 mg/ngày) hoặc PTU (tối đa 600 – 750 mg/ngày) trong thời kỳ cho con bú không ảnh hưởng đáng kể đến nồng độ hormone tuyến giáp của trẻ sơ sinh [11].

Bên cạnh thuốc từ huyết tương mẹ qua sữa, một số yếu tố khác đóng vai trò then chốt làm gia tăng nguy cơ ngộ độc thuốc ở trẻ sơ sinh với thuốc kháng giáp có trong sữa  mẹ [8]

  • Tần số và số lượng bữa ăn của trẻ sơ sinh
  • Mối liên quan của thức ăn với sự hấp thu thuốc vào huyết tương
  • Nồng độ đỉnh của thuốc trong sữa mẹ
  • Chức năng gan và thận của trẻ sơ sinh

Liều thionamides điều trị nên được chia ra trong ngày,  uống ngay sau khi cho con bú và lý tưởng nhất là uống 3 đến 4 giờ trước khi cho con bú lần tiếp theo [13-15]. Mặc dù các chuyên gia nhi khoa hiện đang khuyến khích cho con bú theo nhu cầu, các chuyên gia nội tiết học khuyến cáo rằng các thuốc KGTTH  nên được uống sau bữa  ăn và chia liều [13]. Do đó, có vẻ hợp lý khi xem xét chuyển đổi mô hình cho con bú theo nhu cầu sang cho con bú theo lịch trình để tạo điều kiện cho điều chỉnh liều và làm giảm sự tiếp xúc của trẻ với thuốc KGTTH. Trong trường hợp CBZ  dùng 1lần/ngày, có thể chia liều thuốc 2-3 lần/ngày hoặc chuyển nó sang MMI[16].

Trong dân số nói chung, thuốc KGTTH gây ra tác dụng phụ nhẹ ở 10 – 15% người  bệnh. Tác dụng phụ nặng ít gặp hơn. Tác dụng phụ liên quan đến MMI phụ thuộc vào liều, trong khi PTU ít liên quan đến liều lượng. Tác dụng phụ của thuốc KGTTH được liệt kê trong Bảng 1. Tuy nhiên, với tỷ lệ sử dụng thuốc KGTTH  thấp ở các bà mẹ cho con bú và hầu hết các tác dụng phụ là không phổ biến, rất khó để xác định liệu tỷ lệ tác dụng phụ trong bà mẹ cho con bú và trẻ sơ sinh có tương tự như trong dân số nói chung hay không.

Thuốc KGTTH, đặc biệt là PTU, có liên quan đến rối loạn chức năng gan cả ở trẻ em và người lớn. Biểu hiện lâm sàng rất khác nhau từ tổn thương gan nhẹ, hồi phục đến suy gan cấp, ghép gan, hoặc thậm chí tử vong [8].Hầu hết các trường hợp sử dụng PTU thường nặng hơn, do đặc tính riêng và không phụ thuộc vào liều.

Không có dấu ấn sinh học nào có thể dự đoán tổn thương gan. Do đó, PTU thường là lựa chọn thứ hai . Hầu hết các tổn thương gan phát triển trong thời gian vài tháng đầu (trung bình 120 ngày) điều trị và hầu hết đều có diễn biến lành tính, nhưng rất khó dự đoán [8,18].Hiệp hội Tuyến giáp Hoa Kỳ cùng với FDA đã đánh giá lại viêm gan nhiễm độc có  liên quan đến PTU và ước tính rằng 3- 4 người lớn hoặc trẻ em mỗi năm sẽ bị suy gan nặng cần phải điều trị cấy ghép ngay lập tức [8,19].Do đó, ngay cả một lượng nhỏ thuốc cũng có khả năng gây hại cho trẻ sơ sinh và nhiễm độc gan có thể xuất hiện sau một thời gian tiềm ẩn từ vài tháng đến vài năm[8].

Vì vậy, MMI với liều tối đa 20-30mg/ngày là an toàn cho bà mẹ cho con bú và trẻ. Thuốc MMI hiện nay được khuyến cáo điều trị cường giáp cho những bà mẹ đang cho con bú cần sử dụng thuốc KGTTH. Do độc tính trên gan, PTU (tốt nhất là dưới 300mg/ngày) chỉ nên là lựa chọn thứ hai cho các trường hợp như cường giáp nặng (cơn bão giáp) hoặc có dị ứng với MMI[13].

3. Tác dụng của thuốc kháng giáp đối với trẻ sơ sinh

Một số nghiên cứu đã được công bố, trong đó bao gồm gần 200 trẻ cho có mẹ bị nhiễm độc giáp dùng PTU, MMI hoặc carbimazole[3].Tóm tắt của các nghiên cứu này cho thấy rằng sử dụng MMI của mẹ (liều tối đa 20 mg/ngày) hoặc PTU (tối đa 600 đến 750 mg/ngày) trong thời gian cho con bú không ảnh hưởng đáng kể đến nồng độ hormone tuyến giáp của trẻ sơ sinh. Azizi và cộng sự chứng minh rằng ngay cả khi người mẹ bị suy giáp do điều trị thuốc KGTTH chức năng tuyến giáp của trẻ bú mẹ vẫn bình thường[7,20].

Khi đánh giá tác động của KGTTH đến chức năng tuyến giáp của trẻ sơ sinh cũng như di chứng lâu dài ở trẻ, các nghiên cứu đã không tìm thấy trường hợp nào[21].

Tác dụng phụ liên quan đến thuốc KGTTH, như phát ban, mất bạch cầu hạt, rối loạn chức năng gan và di chứng tự miễn, chưa được mô tả ở trẻ bú mẹ của các bà mẹ điều trị bằng thuốc KGTTH.

Một số nghiên cứu cho thấy sự phát triển về thể chất và trí tuệ và tình trạng tuyến giáp của trẻ sơ sinh của các bà mẹ  được điều trị thuốc KGTTH  sau khi sinh trong khi cho con bú không thay đổi so với nhóm chứng[8,13]. Chiều cao, cân nặng, FT4, FT3, TSH và kháng thể kháng tuyến giáp ở trẻ bú mẹ của các bà mẹ bị cường giáp cho con bú sử dụng MMI (20-30 mg/ngày) không khác biệt so với nhóm chứng, cũng  không có sự khác biệt về chỉ số IQ[7]. PTU với liều hàng ngày lên tới 750mg cũng không ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp của trẻ sơ sinh.

Tuy nhiên với tác dụng không mong muốn của PTU, liều PTU nền < 450 mg/ngày[3]. Các chuyên gia hiện khuyến cáo rằng trẻ bú sữa mẹ ở người mẹ có dùng thuốc KGTTH  nên xét nghiệm đánh giá chức năng tuyến giáp.

Nồng độ TSH, FT4 nên được đánh giá mỗi 3-4 tuần sau khi bắt đầu cho trẻ bú[22], nhưng không cần phải kiểm tra thường xuyên, trừ khi nhận thấy có vấn đề với sự phát triển thể chất hay tinh thần ở trẻ sơ sinh.

4. Kết luận

Tóm lại, việc tiếp tục cho con bú là an toàn và nên được khuyến khích ởcác bà mẹ cường giáp có sử dụng thuốc KGTTH. Do độc tính trên gan của thuốc PTU, liều MMI từ thấp đến trung bình được khuyến cáo  như một liệu pháp điều trị đầu tiên ở các bà mẹ cho con bú. PTU chỉ nên được lựa chọn như thuốc thứ hai cho các trường hợp cường giáp nặng (cơn bão giáp) hoặc dị ứng với MMI. Liều dùng thionamides nên được chia nhiều lần trong ngày, uống ngay sau khi cho con bú và lý tưởng nhất là uống 3 -4  giờ trước khi cho con bú lần tiếp theo.

Có ý kiến cho rằng trẻ sơ sinh bú sữa mẹ có sử dụng thuốc KGTTH  nên được sàng lọc đánh giá chức năng tuyến giáp.

Tuy nhiên người ta thấy rằng sự phát triển về thể chất và trí tuệ và chức năng tuyến giáp của trẻ sơ sinh của người mẹ nhận thuốc KGTTH trong khi vẫn cho con bú không thay đổi.

Bảng 1: Tác dụng phụ của thuốc KGTTH

Điều trị Basedow ở phụ nữ cho con bú
Hình 1: Qui trình để quản lý các bà mẹ cho con bú bị cường giáp. Đường đứt nét đại diện cho lựa chọn phương pháp điều trị thay thế. 

Điều trị Basedow ở phụ nữ cho con bú

*Thực hiện chia liều ngay sau mỗi bữa: cần theo dõi chức năng gan

** Liệu pháp điều trị thay thế: thực hiện chia liều ngay sau mỗi bữa: đòi hỏi theo dõi chức năng gan

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Kramer, M.S. & Kakuma, R. (2012) Optimal duration of exclusive breastfeeding.Cochrane Database Syst Rev 8, CD003517.
  2. Cooper, D.S. (2005) Antithyroid drugs. N Engl J Med 352, 905-917.
  3. Mandel, S.J. & Cooper, D.S. (2001) The use of antithyroid drugs in pregnancy andlactation. JClin Endocrinol Metab 86, 2354-2359.
  4. Williams, R.H., Kay, G.A. & Jandorf, B.J. (1944) Thiouracil. Its Absorption,Distribution, and Excretion. J Clin Invest 23, 613-627.
  5. Kampmann, J.P., Johansen, K., Hansen, J.M. & Helweg, J. (1980). Propylthiouracil inhuman milk. Revision of a dogma. Lancet 1, 736-737.
  6. Johansen, K., Andersen, A.N., Kampmann, J.P., Molholm Hansen, J.M. & Mortensen,H.B. (1982) Excretion of methimazole in human milk. Eur J Clin Pharmacol 23, 339-341.
  7. Azizi, F., Khoshniat, M., Bahrainian, M. & Hedayati, M. (2000) Thyroid function andintellectual development of infants nursed by mothers taking methimazole. J Clin EndocrinolMetab 85, 3233-3238.
  8. Karras, S. & Krassas, G.E. (2012) Breastfeeding and antithyroid drugs: a view fromwithin. Eur Thyroid J 1, 30-33.
  9. Momotani, N., Yamashita, R., Makino, F., Noh, J.Y., Ishikawa, N. & Ito, K. (2000)Thyroid function in wholly breast-feeding infants whose mothers take high doses ofpropylthiouracil. Clin Endocrinol (Oxf) 53, 177-181.
  10. Azizi, F. & Hedayati, M. (2002) Thyroid function in breast-fed infants whose motherstake high doses of methimazole. J Endocrinol Invest 25, 493-496.
  11. Lao, T. (2005) Management of hyperthyroidism and goitre in pregnancy, andpostpartum thyroiditis. J Paediatr Obstet Gynaecol 31, 155-164.
  12. Ito, S. (2000) Drug therapy for breast-feeding women. N Engl J Med 343, 118-126.This article is protected by copyright. All rights reserved.
  13. Stagnaro-Green, A., Abalovich, M., Alexander, E., Azizi, F., Mestman, J., Negro,R.,Nixon, A., Pearce, E.N., Soldin, O.P., Sullivan, S. & Wiersinga, W. (2011) Guidelines of the
    American Thyroid Association for the diagnosis and management of thyroid disease duringpregnancy and postpartum. Thyroid 21, 1081-1125.
  14. Abalovich, M., Amino, N., Barbour, L.A., Cobin, R.H., De Groot, L.J., Glinoer, D.,Mandel, S.J. & Stagnaro-Green, A. (2007) Management of thyroid dysfunction duringpregnancy and postpartum: an Endocrine Society Clinical Practice Guideline. J Clin
    Endocrinol Metab 92, S1-47.
  15. Prunty, J.J., Heise, C.D. & Chaffin, D.G. (2016) Graves’ Disease Pharmacotherapy in Women of Reproductive Age. Pharmacotherapy 36, 64-83.
  16. Krishna, U.R., Tank, D.K. & Daftary, S. Pregnancy at risk: current concepts. NewDelhi: Jaypee, 2001, (2004 [printing]).
  17. Rivkees, S.A. & Mattison, D.R. (2009) Ending propylthiouracil-induced liver failurein children. N Engl J Med 360, 1574-1575.
  18. Kim, H.J., Kim, B.H., Han, Y.S., Yang, I., Kim, K.J., Dong, S.H., Chang, Y.W., Lee,J.I. & Chang, R. (2001) The incidence and clinical characteristics of symptomaticpropylthiouracil-induced hepatic injury in patients with hyperthyroidism: A single-center
    retrospective study. Am J Gastroenterol 96, 165-169.
  19. S. Food and Drug Administration (2009). Propylthiouracyl (PTU)-related livertoxicity. April 18 2009 workshop.)

Điều trị Basedow ở phụ nữ cho con bú