Đầu thế kỷ 19 chế độ phong kiến Việt Nam và Nhật Bản đều có điểm giống nhau

(ADMM) - Trong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam nằm ở một trong những khu vực được coi là cái nôi của loài người và cũng được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng đá mới và cách mạng luyện kim. Trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Bằng sức lao động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang (sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ.

Trong quá trình dựng nước, người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc đấu tranh giữ nước, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng. Một điều đã trở thành quy luật của các cuộc đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam là phải “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.

Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên (kéo dài hơn 1.000 năm), Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ. Sự tồn vong của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn năm đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa, quyết giành lại độc lập cho dân tộc của người dân Việt Nam.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam - kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỷ xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dưới các triều Ngô (938 - 965), Đinh (969 - 979), Tiền Lê (980 - 1009), nhà nước trung ương tập quyền được thiết lập.

Sau đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với quốc hiệu Đại Việt) dưới triều Lý (1009 - 1226), Trần (1226 - 1400), Hồ (1400 - 1407), Lê Sơ (1428 - 1527). Đại Việt dưới thời Lý - Trần - Lê Sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở châu Á. Đây là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử của Việt Nam trên mọi phương diện. Về kinh tế: nông nghiệp phát triển, thủy lợi được chú ý phát triển (đê Sông Hồng được đắp vào thời kỳ này), các làng nghề ra đời và phát triển. Về tôn giáo: tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Nho giáo được coi là tam giáo đồng nguyên. Một thành tựu quan trọng trong thời Lý - Trần là việc phổ biến chữ Nôm, chữ viết riêng của Việt Nam dựa trên cơ sở cải biến và Việt hóa chữ Hán. Bên cạnh đó các lĩnh vực khác như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn học - nghệ thuật, lịch sử, luật pháp… cũng rất phát triển (Văn Miếu - Quốc Tử Giám được xây dựng, sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức, Đại Việt Sử ký, Đại Việt Sử ký toàn thư…). Lịch sử gọi thời kỳ này là Kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Thăng Long (bây giờ là Hà Nội) cũng được chính thức công nhận là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào năm 1010.

Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam với tư tưởng nho giáo đã bộc lộ sự lạc hậu và bắt đầu suy yếu. Trong khi nhiều quốc gia - dân tộc ở châu Âu đang dần chuyển sang chủ nghĩa tư bản thì Đại Việt bị chìm trong nội chiến và chia cắt. Tuy trong các thế kỷ XVI - XVIII, nền kinh tế, văn hóa có những bước phát triển nhất định, nhiều thành thị, thương cảng ra đời đẩy nhanh quan hệ buôn bán trong và ngoài nước, nhưng cảnh chia cắt và nội chiến đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ráo riết tìm kiếm thị trường, từng bước xâm chiếm thuộc địa. Người Pháp, thông qua con đường truyền đạo, thương mại đã tiến hành thôn tính Việt Nam. Đây là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam phải đương đầu với họa xâm lăng từ một nước công nghiệp phương Tây. Trong hoàn cảnh này, một số trí sĩ Việt Nam đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ của phương Đông. Họ đã đệ trình những đề nghị canh tân đất nước, nhưng đều bị triều Nguyễn khước từ, đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc và từ đó Việt Nam đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến trong gần 100 năm (1858 - 1945).

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã khởi nghĩa giành chính quyền thành công, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945.

Nước Việt Nam non trẻ vừa ra đời lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước kéo dài suốt 30 năm sau đó. Cuộc kháng chiến 9 năm (1945 - 1954) chống lại sự xâm lược trở lại của Pháp ở Việt Nam kết thúc bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ này mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động; Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà với sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Hoa Kỳ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn đã bằng mọi cách ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ. Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước đã bùng nổ mạnh mẽ. Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.

Để duy trì chế độ Sài Gòn, Hoa Kỳ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60, Hoa Kỳ đã gửi nửa triệu quân và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến và bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam từ ngày 5/8/1964. Nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. Mùa Xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đập tan chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25/4/1976, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc.  Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc.

Trong 10 năm đầu của thời kỳ sau chiến tranh, nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội không thực hiện được do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng, trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đề ra đường lối Đổi mới với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam thời kỳ mới. Đường lối Đổi mới tiếp tục được Đảng khẳng định và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội sau đó. Trong 30 năm qua, kể từ khi tiến hành Đổi mới, Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới (năm 2015, Việt Nam xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới, sau Ấn Độ và Thái Lan), nhiều chủng loại hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được ưa chuộng, nhiều thương hiệu hàng hóa được thế giới biết đến, kinh tế đạt tăng trưởng cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, chính sách xã hội được chú trọng, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, quản lý xã hội trên cơ sở luật pháp dần đi vào nề nếp, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo lý Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Cuộc sống lao động gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và kiên nhẫn; yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng giềng, dòng họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà - làng - nước - dân tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống tương thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Nguồn: www.mofa.gov.vn

- Giai đoạn thành lập và xây dựng nhà nước phong kiến Nhật Bản (từ thế kỷ thứ VI đến nửa đầu thế kỷ XIX) được chia làm ba thời kỳ:

+ Từ thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ thứ VIII: là giai đoạn thành lập nhà nước phong kiến tập quyền, đóng đô ở Asuka (gần thành phố Nara ngày nay). Tên nước từ Yamato đổi thành Nhật Bản(2). Thiên Hoàng Xiotocu công bố Luật 17 điều, trong đó đề cao tư tưởng trung quân. Chính tư tưởng trung quân, muốn xây dựng và củng cố một nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh theo hình mẫu Trung Quốc là nguyên nhân dẫn đến cuộc cải cách Taica(3) - cuộc cải cách đầu tiên trong lịch sử hành chính Nhật Bản.

+ Từ thế kỷ thứ IX đến cuối thế kỷ XII: các dòng họ quý tộc hùng mạnh ở Heian thay nhau nắm sức mạnh chính trị của đất nước, lấn át quyền lực của Thiên Hoàng. Trong mô hình quản lý nhà nước thời kỳ này có chức danh Nhiếp chính. Đó là người giúp Thiên Hoàng trị vì đất nước và thâu tóm mọi quyền lực. Cuối thời kỳ này, tầng lớp võ sĩ samurai bắt đầu hình thành và tranh giành quyền lực với các dòng tộc quý tộc.

+ Từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIX: là thời kỳ phát triển cuối cùng và cao nhất của chế độ phong kiến Nhật Bản, thường được gọi là thời kỳ Bakufu - tức Mạc phủ(4). Thời kỳ Mạc phủ được chia làm 3 giai đoạn: Mạc phủ Kamakưra, Mạc phủ Muromachi và Mạc phủ Tokưgaoa(5). Thời kỳ này bắt đầu từ việc Minamoto Yoritomo được Thiên Hoàng phong cho danh hiệu Tướng quân - mở đầu cho việc thiết lập chính quyền quân sự của tầng lớp samurai ở Nhật Bản. Thực chất quyền lực nhà nước lúc này nằm trong tay chính quyền quân sự; từ đó chính quyền Mạc phủ tồn tại song song với chính quyền của Thiên Hoàng cho đến năm 1868.

- Giai đoạn xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến Nhật Bản (từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay). Nhà nước phong kiến Nhật Bản được thay thế bởi nhà nước quân chủ lập hiến thông qua cuộc cải cách của Thiên Hoàng Minh Trị. Mô hình chính quyền Nhật Bản được chuyển đổi theo hướng kết hợp giữa thể chế chính trị của phương Tây - phân chia quyền lực theo chế độ đại nghị (thành lập Chính phủ lập hiến) kết hợp với thể chế quan liêu truyền thống của Nhật Bản (vẫn duy trì chế độ Thiên Hoàng). Bằng cải cách Minh Trị, quyền lực của Thiên Hoàng được khôi phục đồng thời cũng là sự cáo chung của chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm tại Nhật Bản.

Nhật Bản là nước theo hệ thống quân chủ lập hiến, trong đó Thủ tướng là người nắm quyền cao nhất về các phương diện quản lý quốc gia và chịu sự giám sát của hai viện quốc hội cùng Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền ngăn chặn các quyết định vi hiến của chính phủ. Thiên Hoàng về danh nghĩa là tối cao nhưng chỉ mang tính tượng trưng, không được tham gia vào chính trị.

Đầu thế kỷ 19 chế độ phong kiến Việt Nam và Nhật Bản đều có điểm giống nhau
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Nhật bản Shinzo Abe sau buổi hội đàm hôm 28/5/2016. Ảnh: Chinhphu.vn

2. Những đặc điểm nổi bật của lịch sử hành chính nhà nước Nhật Bản

Thứ nhất, Nhật Bản thay đổi tên gọi các thời kỳ lịch sử theo địa danh hành chính mà chính quyền trung ương đặt ở đó. Từ năm 710-794 Nhật Bản chọn Nara làm kinh đô nên thời kỳ này được gọi là thời đại Nara; từ năm 794-1192, Nhật Bản chọn kinh đô ở Heian (Kyoto) nên gọi thời kỳ này là thời đại Heian; thời kỳ Mạc phủ có Mạc phủ Kamakưra, Mạc phủ Muromachi, Mạc phủ Tokưgaoa. Điều này rất khác với các nước phương Đông khác như Trung Quốc, Việt Nam, bán đảo Triều Tiên…

Thứ hai, xây dựng nhà nước phong kiến Nhật Bản theo mô hình nhà nước phong kiến Trung Quốc đương thời nhưng vẫn giữ bản sắc riêng. Thiên Hoàng củng cố chính quyền trung ương tập quyền thông qua đề cao đạo Phật, tiếp thu tư tưởng chính trị Nho gia, lập hội đồng nhà nước tối cao và 8 bộ (nội chính, tư pháp, quân sự, kinh tế, tài chính,…), đặt ra 12 cấp quan lại và quy định chế độ không cha truyền con nối. Như vậy, việc xây dựng thể chế có mô phỏng thể chế Trung Quốc, song cái mới của triều đình Thiên Hoàng lúc này là đặt 12 cấp cao - thấp cho hệ thống quan lại (Trung Quốc có 9 bậc); chế độ quan lại cha truyền con nối ở Trung Quốc được thay đổi phù hợp với điều kiện của Nhật Bản; Trung Quốc có 6 bộ chịu sự quản lý của cơ quan Tam sảnh, ở Nhật Bản Thiên Hoàng thành lập hội đồng nhà nước tối cao quản lý các cơ quan chức năng này…

Thứ ba, sau khi tách khỏi ảnh hưởng của mô hình hành chính phong kiến Trung Quốc, lịch sử hành chính phong kiến Nhật Bản xuất hiện hai mô hình tổ chức bộ máy nhà nước song song tồn tại: bộ máy hành chính do Thiên Hoàng quản lý và bộ máy hành chính do Tướng quân quản lý.

Sau khi bộ máy chính quyền Mạc phủ của các Tướng quân được xác lập thì hệ thống quan chức do Thiên Hoàng cử đến các địa phương đã không có hiệu lực, xa rời triều đình và dần phục tùng Mạc phủ. Do quản lý một cách thực tế và hữu hiệu đối với mọi khu vực của đất nước nên người dân nước này dần dần coi Mạc phủ là chính quyền trung ương của Thiên Hoàng ở Kyoto. Các Tướng quân đã hình thành một bộ máy hoàn chỉnh gồm các cơ quan chính quyền với các chính sách được vạch ra để điều hành trong một thời gian rất dài. Tổ chức này không giống kiểu triều đình, các cơ quan được đặt tên theo thực tế công việc chứ không nặng về chức danh, phẩm tước. Mệnh lệnh của Tướng quân thông qua các quan lại địa phương trở thành mệnh lệnh của chính quyền nhà nước. Hơn nữa, bằng việc giữ địa vị thống trị về kinh tế (đất đai và thu thuế) và quân sự, Tướng quân có được địa vị cao nhất về chính trị, nắm quyền điều hành đất nước như người đứng đầu nhà nước. Trong khi đó, các nhà cầm quyền ở Kyoto không còn thực quyền ở các tỉnh. Khi quyết định chủ trương hoặc bổ nhiệm nhân sự trong triều Thiên Hoàng đều tham khảo ý kiến của chính quyền Mạc phủ, sự đồng tình từ quan Nhiếp chính và cơ quan chính quyền đại diện của Kamakưra ở Kyoto. Ngược lại, Mạc phủ luôn nhân danh lệnh của Thiên Hoàng để truyền đạt các chính sách, sắc lệnh, chỉ dụ nhằm giữ uy tín và tăng thêm quyền lực cho mình. Đặc biệt, mọi chỉ dụ đó đều do Hội đồng nhà nước của Mạc phủ soạn thảo.

Từ hai mô hình bộ máy hành chính trên cho thấy:

- Nhà nước Nhật Bản trong giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến là chế độ chuyên chính quân phiệt, nhằm đàn áp phong trào khởi nghĩa của nông dân và thợ thủ công, bảo vệ những đặc quyền đặc lợi của giai cấp phong kiến, hạn chế khuynh hướng phân quyền cát cứ. Mặc dù có thâu tóm quyền lực vào chính quyền trung ương, củng cố chế độ độc tài chuyên chế nhưng nhà nước Nhật Bản vẫn không ngăn cản được khuynh hướng phân quyền cát cứ. Đây được coi là một nét đặc trưng trong quá trình phát triển của nhà nước phong kiến Nhật Bản.

- Quá trình tồn tại hai hệ thống chính quyền cùng mối quan hệ trên đã ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lịch sử và tạo nên một đặc trưng riêng của Nhật Bản: các Nhiếp chính không bao giờ cướp ngôi của Thiên Hoàng; các Tướng quân dù thực quyền nhưng luôn giữ quan hệ thân thiện với Thiên Hoàng, luôn tỏ lòng kính trọng với Thiên Hoàng… Lòng trung thành với Thiên Hoàng là truyền thống vững chắc trong xã hội Nhật Bản. Thiên Hoàng luôn là biểu tượng thiêng liêng của dân tộc nên không vị Tướng quân nào dám công khai có hành vi chống đối hoặc tỏ ra không trung thành. Vì thế khuynh hướng phân quyền cát cứ ở Nhật Bản cũng mang đặc điểm riêng không giống các quốc gia khác.

Thứ tư, sau cuộc cải cách của Minh Trị, Nhật Bản là nước theo chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực của Thiên Hoàng bị hạn chế rất nhiều. Với tư cách nguyên thủ quốc gia, Thiên Hoàng chỉ mang tính chất tượng trưng, đại diện cho truyền thống, sự thống nhất của quốc gia, không có nhiều quyền hành trong thực tế, “nhà vua trị vì nhưng không cai trị”.

Tuy nhiên, thời gian đầu Thiên Hoàng có quyền hạn rất lớn, được ghi trong Hiến pháp ban hành vào năm 1889. Theo đó, tổ chức bộ máy được quy định như sau:

- Thiên Hoàng có quyền hạn: triệu tập, giải tán Quốc hội, đình chỉ các đạo luật mà Quốc hội đã chấp thuận, quyết định chiến tranh hay hòa bình, tổng tư lệnh quân đội, bổ nhiệm và bãi nhiệm các bộ trưởng. Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm trước Thiên Hoàng mà không chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

- Quốc hội có quyền lập pháp và thông qua ngân sách. Quốc hội có 2 viện: Viện quý tộc - tương đương thượng nghị viện. Thiên Hoàng chỉ định có 368 nghị viên được chọn trong số hoàng thân đứng tuổi, quý tộc tước công, hầu, bá, tử, nam và 66 người được chọn trong những người có công lao đặc biệt với nhà nước. Viện dân biểu - tương đương hạ nghị viện. 12 năm đầu có 300 nghị viên, năm 1925 tăng lên 464 nghị viên. Viện này do một số dân chúng có quyền bầu cử bầu ra theo hình thức công khai.

- Nội các là cơ quan hành pháp do Thiên Hoàng lập ra, nắm thực quyền chính trị. Đứng đầu nội các là Thủ tướng. Các thành viên của Nội các chịu trách nhiệm trước Thiên Hoàng mà không chịu trách nhiệm trước nghị viện. Như vậy, quyền lực của nghị viện rất hạn chế, chỉ là hình thức. Thiên Hoàng có cơ quan tư vấn là Viện cơ mật, đối lập với nghị viện mà khống chế Nội các.

Trong bộ máy nhà nước, Bộ binh và Bộ hải quân chỉ quản lý về hành chính đối với lục quân và hải quân, còn quyền chỉ huy hai lực lượng này thuộc về Bộ Tổng tham mưu hải - lục quân. Tham mưu trưởng có quyền báo cáo trực tiếp lên Thiên Hoàng, không cần thông qua Nội các. Do đó, quân đội có vị trí to lớn và độc lập nhất định với Chính phủ. Như vậy, quyền lực của Thiên Hoàng bao trùm lên cả quyền hành pháp, lập pháp và là người đứng đầu quân đội.

3. Những nét tương đồng với lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam

Một là, sự ra đời quốc gia cổ đại Nhật Bản tương tự như lịch sử Việt Nam, cũng bắt nguồn từ một câu truyện truyền thuyết. Theo truyền thuyết, nước Nhật Bản được thành lập từ khoảng năm 660 trước công nguyên. Đó là thuở ban sơ, vũ trụ chưa có hình thù, có tới tám trăm vạn thần linh, sống ở trên Cánh Đồng Trời, từ đó nhìn xuống chỉ thấy bóng tối, sương mù và nước. Hai vị thần trong tuổi thanh xuân là chàng Izanagi và nàng Izanami nhận nhiệm vụ làm cho mặt đất đi theo đời sống mà sinh sôi nảy nở… Họ quên mình là thần linh, sống như con người, kết hôn với nhau và sinh "con" đầy đàn để tạo thành các bộ tộc người ở Nhật Bản… Câu truyện truyền thuyết trên khiến chúng ta liên tưởng đến cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ và cái bọc trăm trứng của người Bách Việt những năm 696-692 trước công nguyên.

Thứ hai, cơ sở ra đời của nhà nước Yamato (nhà nước cổ đại Nhật Bản) cũng dựa vào yếu tố kinh tế - xã hội; đó là quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, phân hóa tài sản và xuất hiện giai cấp. Ngoài ra, cơ sở ra đời nhà nước Nhật Bản còn xuất phát từ việc giải quyết xung đột giữa các bộ lạc để có một thủ lĩnh hùng mạnh nhất trở thành thủ lĩnh liên minh các bộ lạc, trở thành Thiên Hoàng. Thiên Hoàng xây dựng nhà nước chuyên chế cổ đại với việc biến hệ thống các thủ lĩnh bộ lạc thành hệ thống quan lại đại diện chính quyền trung ương quản lý các địa phương.

Thứ ba, Nhật Bản cũng có một giai đoạn chịu ảnh hưởng từ mô hình hành chính của nhà nước phong kiến Trung Quốc. Từ thể chế đến xây dựng bộ máy quan lại đều ảnh hưởng của tư tưởng chính trị đạo Khổng. Từng bước Nhật Bản xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền với việc Thiên Hoàng ban cho tập đoàn quan lại, quý tộc nhiều quyền lực, quyền lợi; trong đó có quyền sở hữu đất đai của tầng lớp võ sĩ samurai. Từ đó Nhật Bản nhanh chóng bứt ra khỏi sự ảnh hưởng của mô hình hành chính Trung Quốc, tạo cho mình một bộ máy hành chính mang màu sắc riêng.

Thứ tư, từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIX là thời kỳ nền hành chính Nhật Bản mang nét đặc trưng riêng biệt, không giống với các quốc gia khác. Sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất làm xuất hiện các trang viên phong kiến rộng lớn ở Nhật Bản; đặc biệt, Nhật Bản đã cho phép các trang viên được xây dựng lực lượng quân đội riêng. Điều này giống mô hình quản lý ruộng đất, thực hiện chế độ ban cấp thái ấp, điền trang cho các quan lại, quý tộc; cho phép quan lại, quý tộc dòng họ được xây dựng lực lượng quân đội riêng của nhà Trần ở Đại Việt thế kỷ XII-XIII.

Thứ năm, cùng với việc Thiên Hoàng bổ nhiệm chức Tướng quân là việc thiết lập chính quyền quân sự của tầng lớp samurai và xây dựng thể chế chính trị kết hợp chặt chẽ giữa quân sự và hành chính ở Nhật Bản. Hệ thống chính quyền Mạc phủ tồn tại song song với chính quyền của Thiên Hoàng cho đến năm 1868. Thực chất quyền hành nằm trong tay của chính quyền Mạc phủ với bộ máy hành chính được tổ chức đơn giản nhưng hữu hiệu. Có nhiều ý kiến cho rằng đây là thể chế hai chính quyền song song tồn tại gần giống như chính quyền thời Lê - Trịnh ở Việt Nam từ năm 1593 đến 1786.

 Như vậy, so với Việt Nam, nhà nước cổ đại Nhật Bản ra đời muộn hơn khoảng 5-6 thế kỷ; cũng có giai đoạn chịu ảnh hưởng của mô hình hành chính Trung Quốc và trải qua thời gian dài của chế độ phong kiến. Song quá trình phát triển của mỗi nước có sắc thái độc đáo và riêng biệt. Ngày nay, dù hai quốc gia lựa chọn hai lối đi riêng, song đều hướng đến sự đoàn kết, ổn định để phát triển thịnh vượng trong tương lai./.

ThS. Nguyễn Thị Thu Hòa - Học viện Hành chính quốc gia

--------------------------

Ghi chú:

(1) Phan Ngọc Liên, Lịch sử Nhật Bản, Nxb Văn hóa - Thông tin, H.1995, tr.45.

(2) Nhật = mặt trời; Bản = gốc hay còn gọi là “đất nước mặt trời mọc”.

(3) Thiên hoàng Hiếu Đức có hiệu là Tai ca nên cuộc cải cách này mang tên ông.

(4) Mạc là lều, phủ là chính phủ = nghĩa là đại bản doanh của chính quyền quân sự.

(5) Tên được đặt theo địa điểm đặt tại bản doanh của chính quyền Mạc phủ.

Tài liệu tham khảo:

1. Viện Kinh tế thế giới, Edwin O.Reischauer (sách dịch). Nhật Bản câu chuyện về một quốc gia, Nxb Thống kê, H. 1998.

2. Thích Thiện Ân. Lịch sử tư tưởng Nhật Bản, Nxb Đông phương, Sài Gòn, 1965.

3. Nguyễn Văn Hồng. Lịch sử giáo dục thời Minh Trị Duy Tân, Nxb Giáo dục, H. 1994.

4. Hisao Kanamori. Thành công của Nhật Bản - những bài học về phát triển kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, H. 1994.

5. Đào Huy Ngọc. Vài suy ngẫm về sự thần kỳ Nhật Bản. Viện Quan hệ Quốc tế, H. 1991.

6. Nguyễn Quốc Hùng (chủ biên). Lịch sử Nhật Bản, Nxb Thế giới, H. 2007.

7. Hồ Việt Hạnh. Thể chế tam quyền phân lập Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, H. 2008.

tcnn.vn