Tại sao nói Nguyễn Du là Đại thi hào dân tộc

1. Cuộc đời - con người

-   Nguyễn Du (1765 - 1820) tên chữ Tố Như, tên hiệu Thanh Hiên, quê ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

-   Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh nhân kiệt, hiếu học và trọng nhân tài.

-  Gia đình có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học.

-   Thời thơ ấu sống trong nhung lụa, lên mười tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp sóng gió trong cơn biến động của thời đại, sống long đong chìm nổi ở nhiều nơi.

-   Những năm tháng lận đận khiến Nguyễn Du được sống gần gũi nhân dân, thấm thía những đau khổ của kiếp người lao động. Chính nỗi bất hạnh lớn của cuộc đời đã tạo nên nhà nhân đạo lớn Nguyễn Du.

-  Nguyễn Du miễn cưỡng trở lại làm quan dưới thời nhà Nguyễn trong tâm trạng bất đắc chí.

-   Năm 1820 Nguyễn Du mất đột ngột khi chưa kịp đi sứ sang Trung Quốc lần thứ hai.

-   Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có nhiều mâu thuẫn (trung thành với nhà Lê, không hợp tác với Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn), là một người có hoài bão, lí tưởng nhưng trở thành nạn nhân của một giai đoạn lịch sử nhiều bể dâu, sống một cuộc đời bi kịch nhưng chính điều đó khiến ông trở thành một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

2.  Sự nghiệp thơ văn

-   Tác phẩm chính: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Đoạn trường tân thanh, Văn tế thập loại chúng sinh...

-  Giá trị về mặt tư tưởng:

+ Khuynh hướng hiện thực sâu sắc:

   Ghi chép chân thực, sinh động thực tại lịch sử (hiện thực xã hội nhiều biến động, vấn đề số phận con người cùng khổ. Đây là bản cáo trạng đanh thép về “những điều trông thấy” trong thời đại đương thời.

+ Tư tưởng nhân đạo bao trùm: là sự quan tâm sâu sắc đến thân phận con người.

● Tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.

● Khúc ca về tình yêu tự do, khát vọng công lí.

● Bản cáo trạng danh thép tới các thế lực chà đạp con người.

● Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc của con người.

● Nguyễn Du lấy sự khẳng định cuộc sống hạnh phúc trần gian làm nền tảng, vượt qua lễ giáo phong kiến để khẳng định giá trị tự thân của con người.

-  Giá trị về mặt nghệ thuật:

+ Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa.

+ Đưa thơ Nôm lên đỉnh cao rực rỡ với khả năng sử dụng tài tình thể thơ dân tộc. Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến độ hoàn hảo, mẫu mực, cố điển.

+ Những đóng góp quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt, tác phẩm “Truyện Kiều” là “tập đại hành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

3. Kết luận

- Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của văn học Việt Nam.

- Sự nghiệp văn thơ của Nguyễn Du là cả một di sản lớn về tư tưởng nhân văn và vẻ đẹp nghệ thuật.

Loigiaihay.com

Đề bài: Em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du?

Bạn đang xem: Em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du?

Xem chi tiết Dàn ý em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du? tại đây

Nguyễn Du, một nhà thơ, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam được nhân dân ta kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc”. Có thể nói Nguyễn Du không chỉ là một nhân vật kiệt xuất của thơ ca nước nhà mà còn là danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du để lại cho đời khối lượng tác phẩm tuy không đồ sộ nhưng mang giá trị đặc biệt, trở thành di sản văn học và văn hóa dân tộc.

Nguyễn Du sinh năm 1766 mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, nguyên quán ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh – mảnh đất từ lâu đã được mệnh danh là vùng đất địa linh nhân kiệt. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học, học vấn uyên bác lại là gia đình quý tộc đương thời rất có thế lực, cha ông là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm làm quan Tể tướng dưới triều Lê, mẹ là Trần Thị Tần quê ở Bắc Ninh.

Thời thơ ấu được sống trong gia đình gia giáo lại giàu sang nhưng cuộc sống trong nhung lụa kéo dài chưa tròn mười năm. Năm 10 tuổi ông mất cha, 3 năm sau ông mất mẹ, cuộc đời của anh em Nguyễn Du nói chung và của Nguyễn Du nói riêng bắt đầu trải qua sóng gió và chìm nổi trong biến động thời đại. Năm 1783, Nguyễn Du tham gia thi Hương ở trường Sơn Nam và đậu Tam trường, lấy con gái của Đoàn Nguyên Thục làm vợ và giữ chức quan võ nhỏ. Năm 1786, quân Tây Sơn đánh ra Bắc Hà, Nguyễn Du chạy theo vua Lê Chiêu Thống nhưng không kịp nên trở về quê vợ ở huyện Quỳnh Côi – Thái Bình. Sau đó Nguyễn Du về Nghệ An, tại đây ông bị quân Tây Sơn bắt giữ, giam ba tháng, trải qua cuộc sống chật vật tại Hà Tĩnh mãi đến năm 1802 khi Nguyễn Ánh lên ngôi, ông được gọi ra làm quan dưới triều Nguyễn, nhận chức Tri huyện huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu – Hưng Yên). Kể từ năm đó, Nguyễn Du giữ nhiều chức quan như Đông Các điện học sĩ, Giám khảo trường thi Hải Dương, Cai bạ dinh Quảng Bình, Cần Chánh điện học sĩ, Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1814, ông đi về được thăng chức Hữu tham Tri Bộ Lễ, đến năm 1820 khi vua Gia Long mất, ông tiếp tục đi sứ Trung Quốc nhưng chưa kịp lên đường đã đột ngột qua đời tại kinh đô Huế. Nguyễn Du được an táng tại Huế sau đó được cải táng đưa về quê nhà Hà Tĩnh. Nhà thơ trải qua những năm tháng sóng gió và lận đận của cuộc đời nên vô cùng thấm thía mọi nỗi đau của con người đặc biệt là kiếp người lao động bần hàn, thấp kém, chính điều đó đã tạo nên lòng nhân đạo lớn trong con người Nguyễn Du. Sống giữa giai đoạn lịch sử đầy biến động cũng ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Du, tư tưởng ấy có phần phức tạp và khá mâu thuẫn, tuy nhiên dù ở thời nào trong ông vẫn luôn có những hoài bão, lý tưởng lớn.

Nguyễn Du là người tài cao học rộng, sớm tiếp cận với nền văn học, thơ ca từ gia đình và dòng họ nên có thể nói Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác. Các sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ thời ông còn sống, giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Các sáng tác thơ ca của Nguyễn Du được chia thành hai mảng bao gồm thơ sáng tác bằng chữ Hán và thơ sáng tác bằng chữ Nôm. Thơ chữ Hán của ông gồm có 249 bài thơ được chia thành ba tập thơ lớn là: Thanh Hiên thi tập (78 bài viết trước khi làm quan triều Nguyễn), Nam Trung tạp ngâm (40 bài viết khi làm quan), Bắc hành tạp lục (131 bài viết trong những chuyến đi sứ). Thơ chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có: Đoạn trường tân thanh (gồm 3254 câu thơ lục bát), Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh – 184 câu song thất lục bát), Thác lời trai phường nón (48 câu lục bát), Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ (98 câu lối văn tế). Về mặt tư tưởng, các tác phẩm của Nguyễn Du đi theo khuynh hướng hiện thực, tức là ghi chép một cách chân thực và sinh động những diễn biến lịch sử, số phận con người trong xã hội đương thời. Bên cạnh đó là tư tưởng nhân đạo xuyên suốt, vừa có cảm thông sâu sắc, vừa ca ngợi trân trọng lại có sự phê phán, tố cáo. Về mặt nghệ thuật, những sáng tác của Nguyễn Du đóng góp quan trọng của sự phát triển văn học, văn hóa dân tộc. Thơ chữ Hán tài hoa lỗi lạc, thơ chữ Nôm đạt đến đỉnh cao rực rỡ.

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du đã trở thành di sản về tư tưởng và nghệ thuật của cả dân tộc Việt Nam. Ông là một nhà thơ lỗi lạc, kiệt xuất, hết mình và hết đời vì nghệ thuật. Trải qua thời gian, bức tượng đài của Đại thi hào dân tộc ngày càng ngời sáng.

Bản quyền bài viết thuộc trường trung học phổ thông Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.

Nguồn chia sẻ: Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng (thptsoctrang.edu.vn)

vì Nguyễn Du vừa  là một nhà thơ siêu việt, với thiên tài sáng tác bao trùm cõi xa gần cao thấp của thiên địa.Đó là ''thi hào''.Nguyễn Du là nhà thơ Việt Nam được thế giới biết đến nhiều nhất trong tất cả những nhà thơ Việt Nam,  mọi người đều nhận rằng Nguyễn Du là một nhà thơ có tính chất Việt Nam nhất, nghĩa là cái mà chúng ta gọi là “dân tộc”.

Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc? | Ngữ Văn 10 phải ko Nếu đúng tương tự thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các tài liệu về giáo dục, học tập khác tại đây => Kiến thức lớp 10

Đáp án và đáp án câu hỏi trắc nghiệm xác thực nhất “Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc?”Cùng với kiến ​​thức tham khảo là một bài rà soát Ngữ Văn hay và có lợi.

Đố: Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc?

A. Hồ Chí Minh

B. Nguyễn Du

C. Nguyễn Du

D. Nguyễn Huệ

Trả lời:

Câu trả lời xác thực . Nguyễn du

Tri thức sâu rộng về Đại thi hào Nguyễn Du

1. Tiểu truyện tác giả Nguyễn Du

Nguyễn Du tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, tức ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu, tại phường Bích Câu – Thăng Long. Sinh ra tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, làm quan lớn dưới triều vua Lê, chúa Trịnh nhiều đời. Đó là một gia đình có truyền thống yêu văn học nghệ thuật.

Tại sao nói Nguyễn Du là Đại thi hào dân tộc

Thân sinh là Nguyễn Nghiêm, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông tên là Hy Di, hiệu là Nghi Hiên, hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đỗ Nhị Giáp tiến sĩ. (Thừa tướng), tức Thượng thư thời Lê. Thân mẫu là bà Trần Thị Tần (1740 – 1778), con một Kế, quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Nghìn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài ca hát. Năm Đinh Hợi (1767), lúc Nguyễn Du vừa tròn một tuổi, Nguyễn Nghiễm được phong làm Thái bảo, Hàm Tông thứ nhất, tức Xuân Quận công, nên Nguyễn Du lúc bấy giờ sống trong cảnh sang giàu.

Tổ tiên của Nguyễn Du, quê cha ở làng Tảo Dương, quê ngoại ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), nổi tiếng với truyện Tràng Cầu, Tràng Côn (Trạng Trình Nguyễn Đức Lượng). . và Trạng nguyên Nguyễn Thiện). Sau này, Nam Đường Quận công Nguyễn Doãn Miện (tức Nguyễn Nhiệm, cháu nội Trạng nguyên Nguyễn Thiện) di trú vào Hà Tĩnh, trở thành thủy tổ của dòng tộc Nguyễn Tiên Điền.

2. Sự nghiệp của Nguyễn Du

– Năm Quý Hợi (1803), lúc vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân ra đón vua Gia Long, tới Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng, gặp vua Gia Long, vua phong chức Tri huyện Phù Dung. , Phường Khoái Châu, thị xã Sơn Nam (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên). Sự kiện này cũng giống như Phi Tử thời Chiến Quốc, dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương và được phong là Phù Dung, nên Nguyễn Du có hiệu là Phi Tử.

Nhờ trải qua thời kỳ phiêu bạt, Nguyễn Du thông thuộc chữ Hán nên chỉ vài tháng sau lúc được thăng làm Điện Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), ông đã được đặc cách vào Nam. Quan để tiếp sứ. Nhà Thanh truy tặng hoàng hiệu cho vua Gia Long.

– Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các đại phu, hiệu là Dụ Đức hầu, nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.

– Năm Đinh Mão (1807), ông được cử làm Giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê tĩnh dưỡng.

– Năm Kỷ Tỵ (1809), ông được bổ làm Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.

– Năm Quý Dậu (1813), ông được thăng Cần Chánh Học Đường (Tam phẩm) và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh.

– Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ bộ Tham tri (cam tích hạng nhị).

– Năm Bính Tý (1816), anh rể của Nguyễn Du là Vũ Trinh bị đày vào Quảng Nam vì liên quan tới vụ án cha con Tổng đốc Nguyễn Văn Thành.

– Năm Canh Thìn (1820), vua Gia Long mất, Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, tức là vua Minh Mạng. Lúc này, Nguyễn Du được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh cáo phó và cầu bệnh phong, nhưng ông đã nhắm mắt xuôi tay vì bệnh thổ tả vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16 tháng 9 năm 1820), hưởng thọ 54 tuổi.

Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng tại quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.

Xem thêm:   Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Văn mẫu 10 hay nhất

3. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du

Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Ở lĩnh vực nào, Nguyễn Du cũng đạt được nhiều thành tựu nổi trội.

* Sáng tác chữ Hán, bao gồm:

– Thanh Hiên thi tập (gồm 78 bài), được viết chủ yếu vào những năm trước lúc làm quan nhà Nguyễn.

Nam trung tam muội ngâm vịnh (gồm 40 bài thơ), làm từ năm 1805 tới hết năm 1812, ông viết lúc làm quan ở Huế, Quảng Bình và các địa phương phía nam Hà Tĩnh.

– Bắc hành tạp lục (ghi trong chuyến đi ra Bắc, gồm 131 bài thơ), viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

* Sáng tác chữ Nôm, bao gồm:

– Đoạn trường tân thanh (tiếng kêu đau xé ruột) tức Truyện Kiều gồm 3254 câu thơ lục bát.

– Văn tế cô hồn (tên gốc là Văn tế thập loại, tức là văn của mười loại người), là một bản trường ca gồm 184 câu được viết theo thể song thất lục bát.

– Lời bài hát Thác của chàng trai phường nón (gồm 48 câu), cũng được viết theo thể lục bát, nội dung thay lời chàng trai phường nón viết bài thơ giao duyên với cô gái phường vải.

– Văn tế Trường Lưu Nhị Nữ, gồm 98 câu, được viết theo thể văn …

Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc? | Ngữ Văn 10

Hình Ảnh về: Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc? | Ngữ Văn 10

Video về: Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc? | Ngữ Văn 10

Wiki về Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc? | Ngữ Văn 10

Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc? | Ngữ Văn 10 -

Đáp án và đáp án câu hỏi trắc nghiệm xác thực nhất "Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc?”Cùng với kiến ​​thức tham khảo là một bài rà soát Ngữ Văn hay và có lợi.

Đố: Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc?

A. Hồ Chí Minh

B. Nguyễn Du

C. Nguyễn Du

D. Nguyễn Huệ

Trả lời:

Câu trả lời xác thực . Nguyễn du

Tri thức sâu rộng về Đại thi hào Nguyễn Du

1. Tiểu truyện tác giả Nguyễn Du

Nguyễn Du tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, tức ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu, tại phường Bích Câu - Thăng Long. Sinh ra tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, làm quan lớn dưới triều vua Lê, chúa Trịnh nhiều đời. Đó là một gia đình có truyền thống yêu văn học nghệ thuật.

Thân sinh là Nguyễn Nghiêm, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông tên là Hy Di, hiệu là Nghi Hiên, hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đỗ Nhị Giáp tiến sĩ. (Thừa tướng), tức Thượng thư thời Lê. Thân mẫu là bà Trần Thị Tần (1740 - 1778), con một Kế, quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Nghìn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài ca hát. Năm Đinh Hợi (1767), lúc Nguyễn Du vừa tròn một tuổi, Nguyễn Nghiễm được phong làm Thái bảo, Hàm Tông thứ nhất, tức Xuân Quận công, nên Nguyễn Du lúc bấy giờ sống trong cảnh sang giàu.

Tổ tiên của Nguyễn Du, quê cha ở làng Tảo Dương, quê ngoại ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), nổi tiếng với truyện Tràng Cầu, Tràng Côn (Trạng Trình Nguyễn Đức Lượng). . và Trạng nguyên Nguyễn Thiện). Sau này, Nam Đường Quận công Nguyễn Doãn Miện (tức Nguyễn Nhiệm, cháu nội Trạng nguyên Nguyễn Thiện) di trú vào Hà Tĩnh, trở thành thủy tổ của dòng tộc Nguyễn Tiên Điền.

2. Sự nghiệp của Nguyễn Du

- Năm Quý Hợi (1803), lúc vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân ra đón vua Gia Long, tới Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng, gặp vua Gia Long, vua phong chức Tri huyện Phù Dung. , Phường Khoái Châu, thị xã Sơn Nam (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên). Sự kiện này cũng giống như Phi Tử thời Chiến Quốc, dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương và được phong là Phù Dung, nên Nguyễn Du có hiệu là Phi Tử.

Nhờ trải qua thời kỳ phiêu bạt, Nguyễn Du thông thuộc chữ Hán nên chỉ vài tháng sau lúc được thăng làm Điện Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), ông đã được đặc cách vào Nam. Quan để tiếp sứ. Nhà Thanh truy tặng hoàng hiệu cho vua Gia Long.

- Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các đại phu, hiệu là Dụ Đức hầu, nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.

- Năm Đinh Mão (1807), ông được cử làm Giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê tĩnh dưỡng.

- Năm Kỷ Tỵ (1809), ông được bổ làm Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.

- Năm Quý Dậu (1813), ông được thăng Cần Chánh Học Đường (Tam phẩm) và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh.

- Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ bộ Tham tri (cam tích hạng nhị).

- Năm Bính Tý (1816), anh rể của Nguyễn Du là Vũ Trinh bị đày vào Quảng Nam vì liên quan tới vụ án cha con Tổng đốc Nguyễn Văn Thành.

- Năm Canh Thìn (1820), vua Gia Long mất, Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, tức là vua Minh Mạng. Lúc này, Nguyễn Du được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh cáo phó và cầu bệnh phong, nhưng ông đã nhắm mắt xuôi tay vì bệnh thổ tả vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16 tháng 9 năm 1820), hưởng thọ 54 tuổi.

Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng tại quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.

3. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du

Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Ở lĩnh vực nào, Nguyễn Du cũng đạt được nhiều thành tựu nổi trội.

* Sáng tác chữ Hán, bao gồm:

- Thanh Hiên thi tập (gồm 78 bài), được viết chủ yếu vào những năm trước lúc làm quan nhà Nguyễn.

Nam trung tam muội ngâm vịnh (gồm 40 bài thơ), làm từ năm 1805 tới hết năm 1812, ông viết lúc làm quan ở Huế, Quảng Bình và các địa phương phía nam Hà Tĩnh.

- Bắc hành tạp lục (ghi trong chuyến đi ra Bắc, gồm 131 bài thơ), viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

* Sáng tác chữ Nôm, bao gồm:

- Đoạn trường tân thanh (tiếng kêu đau xé ruột) tức Truyện Kiều gồm 3254 câu thơ lục bát.

- Văn tế cô hồn (tên gốc là Văn tế thập loại, tức là văn của mười loại người), là một bản trường ca gồm 184 câu được viết theo thể song thất lục bát.

- Lời bài hát Thác của chàng trai phường nón (gồm 48 câu), cũng được viết theo thể lục bát, nội dung thay lời chàng trai phường nón viết bài thơ giao duyên với cô gái phường vải.

- Văn tế Trường Lưu Nhị Nữ, gồm 98 câu, được viết theo thể văn ...

[rule_{ruleNumber}]

Đáp án và đáp án câu hỏi trắc nghiệm xác thực nhất “Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc?”Cùng với kiến ​​thức tham khảo là một bài rà soát Ngữ Văn hay và có lợi.

Đố: Người nào được mệnh danh là đại thi hào dân tộc?

A. Hồ Chí Minh

B. Nguyễn Du

C. Nguyễn Du

D. Nguyễn Huệ

Trả lời:

Câu trả lời xác thực . Nguyễn du

Tri thức sâu rộng về Đại thi hào Nguyễn Du

1. Tiểu truyện tác giả Nguyễn Du

Nguyễn Du tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, tức ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu, tại phường Bích Câu – Thăng Long. Sinh ra tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, làm quan lớn dưới triều vua Lê, chúa Trịnh nhiều đời. Đó là một gia đình có truyền thống yêu văn học nghệ thuật.

Thân sinh là Nguyễn Nghiêm, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông tên là Hy Di, hiệu là Nghi Hiên, hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đỗ Nhị Giáp tiến sĩ. (Thừa tướng), tức Thượng thư thời Lê. Thân mẫu là bà Trần Thị Tần (1740 – 1778), con một Kế, quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Nghìn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài ca hát. Năm Đinh Hợi (1767), lúc Nguyễn Du vừa tròn một tuổi, Nguyễn Nghiễm được phong làm Thái bảo, Hàm Tông thứ nhất, tức Xuân Quận công, nên Nguyễn Du lúc bấy giờ sống trong cảnh sang giàu.

Tổ tiên của Nguyễn Du, quê cha ở làng Tảo Dương, quê ngoại ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), nổi tiếng với truyện Tràng Cầu, Tràng Côn (Trạng Trình Nguyễn Đức Lượng). . và Trạng nguyên Nguyễn Thiện). Sau này, Nam Đường Quận công Nguyễn Doãn Miện (tức Nguyễn Nhiệm, cháu nội Trạng nguyên Nguyễn Thiện) di trú vào Hà Tĩnh, trở thành thủy tổ của dòng tộc Nguyễn Tiên Điền.

2. Sự nghiệp của Nguyễn Du

– Năm Quý Hợi (1803), lúc vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân ra đón vua Gia Long, tới Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng, gặp vua Gia Long, vua phong chức Tri huyện Phù Dung. , Phường Khoái Châu, thị xã Sơn Nam (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên). Sự kiện này cũng giống như Phi Tử thời Chiến Quốc, dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương và được phong là Phù Dung, nên Nguyễn Du có hiệu là Phi Tử.

Nhờ trải qua thời kỳ phiêu bạt, Nguyễn Du thông thuộc chữ Hán nên chỉ vài tháng sau lúc được thăng làm Điện Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), ông đã được đặc cách vào Nam. Quan để tiếp sứ. Nhà Thanh truy tặng hoàng hiệu cho vua Gia Long.

– Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các đại phu, hiệu là Dụ Đức hầu, nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.

– Năm Đinh Mão (1807), ông được cử làm Giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê tĩnh dưỡng.

– Năm Kỷ Tỵ (1809), ông được bổ làm Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.

– Năm Quý Dậu (1813), ông được thăng Cần Chánh Học Đường (Tam phẩm) và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh.

– Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ bộ Tham tri (cam tích hạng nhị).

– Năm Bính Tý (1816), anh rể của Nguyễn Du là Vũ Trinh bị đày vào Quảng Nam vì liên quan tới vụ án cha con Tổng đốc Nguyễn Văn Thành.

– Năm Canh Thìn (1820), vua Gia Long mất, Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, tức là vua Minh Mạng. Lúc này, Nguyễn Du được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh cáo phó và cầu bệnh phong, nhưng ông đã nhắm mắt xuôi tay vì bệnh thổ tả vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16 tháng 9 năm 1820), hưởng thọ 54 tuổi.

Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng tại quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.

3. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du

Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Ở lĩnh vực nào, Nguyễn Du cũng đạt được nhiều thành tựu nổi trội.

* Sáng tác chữ Hán, bao gồm:

– Thanh Hiên thi tập (gồm 78 bài), được viết chủ yếu vào những năm trước lúc làm quan nhà Nguyễn.

Nam trung tam muội ngâm vịnh (gồm 40 bài thơ), làm từ năm 1805 tới hết năm 1812, ông viết lúc làm quan ở Huế, Quảng Bình và các địa phương phía nam Hà Tĩnh.

– Bắc hành tạp lục (ghi trong chuyến đi ra Bắc, gồm 131 bài thơ), viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

* Sáng tác chữ Nôm, bao gồm:

– Đoạn trường tân thanh (tiếng kêu đau xé ruột) tức Truyện Kiều gồm 3254 câu thơ lục bát.

– Văn tế cô hồn (tên gốc là Văn tế thập loại, tức là văn của mười loại người), là một bản trường ca gồm 184 câu được viết theo thể song thất lục bát.

– Lời bài hát Thác của chàng trai phường nón (gồm 48 câu), cũng được viết theo thể lục bát, nội dung thay lời chàng trai phường nón viết bài thơ giao duyên với cô gái phường vải.

– Văn tế Trường Lưu Nhị Nữ, gồm 98 câu, được viết theo thể văn …

#được #mệnh #danh #là #đại #thi #hào #dân #tộc #Ngữ #Văn

[rule_3_plain]

#được #mệnh #danh #là #đại #thi #hào #dân #tộc #Ngữ #Văn

[rule_1_plain]

#được #mệnh #danh #là #đại #thi #hào #dân #tộc #Ngữ #Văn

[rule_2_plain]

#được #mệnh #danh #là #đại #thi #hào #dân #tộc #Ngữ #Văn

[rule_2_plain]

#được #mệnh #danh #là #đại #thi #hào #dân #tộc #Ngữ #Văn

[rule_3_plain]

#được #mệnh #danh #là #đại #thi #hào #dân #tộc #Ngữ #Văn

[rule_1_plain] Xem thông tin chi tiết

Nguồn:cungdaythang.com
Phân mục: Giáo dục

#được #mệnh #danh #là #đại #thi #hào #dân #tộc #Ngữ #Văn