So sánh nhau sờ tinh hoàn năm 2024

Tinh hoàn ẩn là thuật ngữ chuyên môn dùng để chỉ tình trạng tinh hoàn không xuống bìu khi trẻ sinh ra. Đây là một dị tật bẩm sinh xảy ra ở bé trai không thấy tinh hoàn không nằm trong bìu.

Tinh hoàn ẩn gặp trong 30% trẻ sinh non, 3% ở trẻ sinh đủ tháng và khoảng 1% ở trẻ 1 tuổi. 68% trường hợp tinh hoàn ẩn một bên và 32% bị hai bên.

Nguyên nhân

Tật Tinh hoàn ẩn xảy ra khi có bất thường trong quá trình di chuyển của tinh hoàn từ ổ bụng xuống bìu vào thời kỳ phôi thai.

Tinh hoàn ẩn có thể gây ra vấn đề gì cho trẻ ?

* Xoắn tinh hoàn: là một cấp cứu ngoại khoa với triệu chứng đau vùng bẹn đột ngột, dữ dội có thể kèm nôn, sốt. Khi khám, bác sĩ sờ thấy một khối căng, nóng, đỏ, đau ở vùng bẹn và sờ không thấy tinh hoàn trong bìu. Xoắn tinh hoàn có thể làm cho tinh hoàn bị hoại tử và mất chức năng.

* Giảm khả năng có con do yếu tố sinh tinh trùng bị ảnh hưởng.

* Có thể gây ung thư tinhhoàn về sau.

Làm sao phát hiện tinh hoàn ẩn ?

Cần phân biệt Tinh hoàn ẩn với :

Tinh hoàn co rút: là tinh hoàn không nằm trong bìu nhưng có thể kéo được xuống bìu và lại chạy lên khi buông ra.

Giới tính không xác định: tinh hoàn ẩn 2 bên hoặc tinh hoàn ẩn kèm lỗ tiểu thấp, cần làm xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ (karyotype) để xác định giới tính.

Điều trị Tinh hoàn ẩn như thế nào :

Điều trị nội khoa: Điều trị bằng nội tiết tố thường ít hiệu quả.

Điều trị phẫu thuật: Vẫn là điều trị được lựa chọn hiện nay.

- Mục đích phẫu thuật: đưa tinh hoàn xuống bìu để bảo tồn chức năng của tinh hoàn.

- Thời điểm phẫu thuật: nên phẫu thuật sớm khi bé 1 tuổi.

- Phẫu thuật như thế nào:

Mổ mở hay mổ nội soi tuỳ thuộc vào tinh hoàn ẩn có sờ thấy hay không.

Hiện tại điều trị phẫu thuật mổ mở tinh hoàn ẩn là một phẫu thuật về trong ngày.

Trong lúc mổ, bác sĩ có thể tìm thấy hoặc không tìm thấy tinh hoàn (do bị bất sản)

Trường hợp tìm thấy tinh hoàn, tuỳ thuộc kích thước của tinh hoàn và độ dài của cuống mạch máu, thái độ xử trí của bác sĩ sẽ khác nhau:

- Nếu cuống đủ dài thì đem tinh hoàn xuống bìu. Đây là khả năng thường gặp nhất.

- Nếu cuống ngắn thì đem tinh hoàn đến mức thấp nhất có thể được và mổ thì hai để hạ tiếp hoặc cắt rời động tĩnh mạch tinh để đem tinh hoàn xuống bìu (kỹ thuật Stephens – Fowler).

- Nếu tinh hoàn bị teo nhỏ thì nên cắt bỏ để ngừa ung thư tinh hoàn về sau.

- Nếu tinh hoàn không có cấu trúc rõ ràng mà chỉ là tuyến sinh dục bị loạn sản thì nên cắt bỏ vì tỉ lệ biến đổi ác tính cao.

Theo dõi sau phẩu thuật:

Bệnh nhi sau mổ cần phải:

- Uống thuốc theo toa

- Giữ sạch vết mổ

- Thay băng theo lời dặn giấy ra viện

Lưu ý:

- Chỉ khâu tự tan, không cần cắt.

- Trẻ vẫn ăn uống, sinh hoạt bình thường.

- Nhớ tái khám đúng hẹn.

Phẩu thuật Tinh hoàn ẩn có biến chứng gì không :

Cũng như tất cả các phẫu thuật khác, vẫn có khả năng xảy ra các biến chứng khi phẫu thuật Tinh hoàn ẩn dù rất hiếm gặp. Đa số là chảy máu, tụ máu, nhiễm trùng vết mổ sau phẩu thuật. Hiếm hơn là Tinh hoàn ẩn tái phát (tinh hoàn rút lại lên trên), t

1.Mô tả vị trí, chức năng hình thể của tinh hoàn, mào tinh, ống dẫn tinh, túi tinh và ống phóng tinh.

2. Mô tả hình thể ngoài và liên quan của tiền liệt tuyến

3. Mô tả mạch máu và thần kinh của cơ quan sinh sản nam.

4. Mô tả cấu tạo của dương vật.

I. Tinh hoàn

Tinh hoàn có hình dạng giống quả trứng, mỗi người có hai tinh hoàn nằm trong bìu. Sau dậy thì, tuyến tạo ra tinh trùng và tuyến nội tiết, tiết ra hocmon tạo nên các đặc chất sinh dục phụ nam giới.

Tinh hoàn nằm trong bìu, bên trái thấp hơn bên phải, cũng có trường hợp bên phải thấp hơn bên trái, đó là ở người đảo ngược phủ tạng và ở người thuận tay trái thỉnh thoảng cũng thấy. Ở tuổi trưởng thành, mỗi tinh hoàn trung bình nặng 25g, khi về già, có nhẹ hơn một ít, phần lớn tinh hoàn phải nặng hơn bên trái.

So sánh nhau sờ tinh hoàn năm 2024

Hình 1. Tinh hoàn và mào tinh

1. Ống dẫn tinh 2. Thân mào tinh 3. Ống xuất 4. Lớp trắng 5. Vách tinh hoàn 6. Tiểu thùy tinh hoàn

Mỗi tinh hoàn có hai đầu: trên và dưới, hai mặt: trong và ngoài, hai bờ: trước và sau. Bờ sau có mào tinh bám.

Về cấu tạo, lớp vỏ trắng bọc bên ngoài, là tổ chức liên kết đặc, ít đàn hồi. Từ mặt trong của vỏ trắng, có các vách chạy ra chia tinh hoàn thành nhiều tiểu thuỳ, có khoảng 250 đến 400 tiểu thuỳ, mỗi tiểu thuỳ có từ một đến bốn ống nhỏ. Tiểu thuỳ có hình chêm, đỉnh hướng về bờ sau của tinh hoàn, tại đó các vách giao nhau tạo nên trung thất tinh hoàn.

Nhu mô tinh hoàn nằm trong các tiểu thuỳ, gồm các ống sinh tinh xoắn. Người ta ước lượng chừng 800 ống cho mỗi tinh hoàn. Các ống này chạy về phía trung thất tinh hoàn, khi gần đến, các ống gặp nhau tạo nên các ống sinh tinh thẳng, có số lượng khoảng 20 đến 30, rồi tạo nên lưới tinh. Từ lưới tinh, có các ống xuất đi đến đầu mào tinh.

Tế bào kẻ, nằm dưới vỏ trắng, trong các vách, trong các chất đệm chung quanh ống sinh tinh xoắn.

II. Mào tinh

Mào tinh có dạng chữ C, gắn vào bờ sau tinh hoàn, hơi lấn ra mặt ngoài, chia làm ba phần: đầu, thân và đuôi. Thân và đuôi dính vào bờ sau của tinh hoàn.

Về cấu tạo, ở đầu mào tinh, có các ống xuất cuộn lại thành các tiểu thuỳ, cuối cùng hình thành một ống duy nhất gọi là ống mào tinh dài khoảng: 6 đến 7 cm. Tại đuôi mào tinh, ống mào tinh tiếp nổi với ống dẩn tinh.

So sánh nhau sờ tinh hoàn năm 2024

Hình 2. Tinh hoàn và mào tinh

1. Đàu mào tinh 2. Thân mào tinh 3. Xoang mào tinh 4. Đuôi mào tinh 5. Cơ bìu

6. Lá thành của màng tinh 7. Mẩu phụ mào tinh 8. Mẩu phụ tinh hoàn 9. Tinh hoàn

III. Ống dẫn tinh

Ống dẫn tinh dẫn tinh trùng từ mào tinh đến lồi tinh, màu trắng, rắn khi sờ cho nên dễ phân biệt với các thành phần khác của thừng tinh. Ống dẫn tinh đi trong thừng tinh qua lỗ bẹn nông và lỗ bẹn sâu, đi ngoài động mạch thượng vị dưới, bắt chéo động mạch chậu ngoài, chạy theo thành bên cửa chậu hông để ra mặt sau của bàng quang. Tại đây ống dẫn tinh đi phía trong túi tinh và phình to ra gọi là bóng, rồi hợp với ống tiết của túi tinh để tạo nên ống phóng tinh. Ống phóng tinh chạy xuyên qua tiền liệt tuyến, đổ vào niệu đạo ở lồi tinh.

IV. Túi tinh

Túi tinh nằm ở trên tiền liệt tuyến, sau bàng quang, trước trực tràng, bên ngoài ống dẫn tinh. ống tiết của nó cùng với ống dẫn tinh tạo nên ống phóng tinh.

So sánh nhau sờ tinh hoàn năm 2024

Hình 3. Túi tinh và bóng ống dẫn tinh

1. Ống dẫn tinh 2. Túi tinh 3. Niệu đạo 4. Tuyến tiền liệt 5. Bóng ống dẫn tinh

V. Thừng tinh

Trong quá trình đi xuống của tinh hoàn, các thành phần phụ thuộc được kéo theo nằm bên trong thừng tinh. Khi xuyên qua ống bẹn, các cơ thành bụng bị lôi cuốn theo tạo nên các lớp bọc ngoài.

1. Cấu tạo

Thừng tinh gồm có ba lớp bọc, từ ngoài vào trong như sau:

– Mạc tinh ngoài, có nguồn gốc của cơ chéo bụng ngoài.

– Cơ bìu và mạc cơ bìu, có nguồn gốc của cơ chéo bụng trong.

– Mạc tinh trong có nguồn gốc của cơ ngang bụng.

2. Các thành phần chứa đựng

Gồm có:

– Di tích mỏm bọc tinh hoàn (ống phúc tinh mạc), còn gọi là dây chằng phúc tinh mạc.

– Động mạch cơ bìu.

– Ống dẫn tinh và mạch máu của ống dẫn tinh.

– Động mạch tinh hoàn và đám rối tĩnh mạch hình dây leo.

Ngoài ra còn có các dây thần kinh đi trong ống bẹn cũng tìm thấy ở đây.

VI. Bìu

Bìu là túi do thành bụng trỉu xuống để chứa tinh hoàn, mào tinh và ống dẫn tinh.

Về cấu tạo, bìu gồm có bảy lớp:

– Da: mỏng, rất đàn hồi, bề mặt có nhiều nếp nhăn ngang và một nếp dọc rõ gọi là đường giữa bìu

– Cơ bám da: gồm những sợi cơ trơn bám vào da. Da bìu có thể co lại được nhờ lớp cơ này.

– Lớp tế bào dưới da: là lớp mỡ và tổ chức nhảo dưới da.

– Lớp mạc nông: có nguồn gốc và liên tục với mạc tinh ngoài.

– Lớp cơ bìu: có tác dụng nâng tinh hoàn lên trên.

– Lớp mạc sâu: có nguồn gốc và liên tục với mạc tinh trong.

– Bao tinh hoàn: tạo nên do lớp phúc mạc bị kéo xuống khi tinh hoàn di chuyển, vì thế gồm có hai lá: lá tạng bám sát vào tinh hoàn và mào tinh, lá thành trở thành một lớp của bìu.

So sánh nhau sờ tinh hoàn năm 2024

Hình 4. Bìu

1. Da bìu 2. Cơ bìu và mạc cơ bìu 3,4 Cơ bìu và mạc cơ bìu

5. Mạc tinh trong 6. Lá thành của màng tinh 7. Tinh hoàn

VII. Tiền liệt tuyến

Tiền liệt tuyến là một tuyến, vừa nội tiết, vừa ngoại tiết, hình nón đáy ở trên, nằm dưới bàng quang, bọc chung quanh niệu đạo nam.

Tuyến tiền liệt có bốn mặt: mặt trước liên quan với khoang sau xương mu, mặt sau liên quan với trực tràng, hai mặt bên liên qua với cơ nâng hậu môn. Trước đây người ta chia tiền liệt tuyến ra làm ba thuỳ: thuỳ phải và thuỳ trái cùng với một thuỳ nằm sau niệu đạo với hình dạng ngón tay gọi là thuỳ giữa. Hiện nay, quan niệm mới chia tiền liệt tuyến làm 5 vùng: vùng ngoại biên, vùng trung biên, vùng cơ sợi, vùng quanh niệu đạo và vùng chuyển tiếp.

Tiền liệt tuyến nặng chừng 15 đến 20g, rộng 4cm, cao 3cm, dày 2,5cm. Tiền liệt tuyến được bao bọc bởi một bao gồm hai lớp: lớp trong là bao thực sự, còn lớp ngoài tạo nên do sự dày lên của lá tạng mạc chậu, giữa hai lá là đám rối tĩnh mạch tiền liệt tuyến.

Tiền liệt tuyến được nuôi dưỡng, bởi các nhánh của động mạch thẹn trong, động mạch trực tràng giữa và động mạch bàng quang dưới. Các tĩnh mạch đổ về tĩnh mạch chậu trong. Đám rối tĩnh mạch tiền liệt tuyến thường có nhánh nối với các tĩnh mạch chung quanh cột sống, điều này có thể giải thích rằng ung thư tiền liệt tuyến thường di căn đến cột sống.

Về phương diện mô học, tiền liệt tuyến gồm hai loại tế bào tuyến, tế bào tuyến thực sự nằm ở ngoại biên của tuyến (ung thư tiền liệt tuyến phát sinh từ tế bào này), trong khi các tuyến nhỏ hơn nằm chung ở niệu đạo có nguồn gốc là các túi thừa niệu đạo (u xơ tiền liệt tuyến là do sự quá sản của các tuyến này).

VIII. Dương vật

1. Hình thể ngoài

Gồm có một rễ, một thân và quy đầu. Rể dính vào xương mu và ngành ngồi mu. Thân hình trụ ở giữa có rãnh. Qui đầu có dạng hình tháp, màu hồng , ở giữa có lổ sáo hay lổ niệu đạo ngoài, giới hạn ở trên bởi một vành nằm theo một mặt phẳng nghiêng theo trục của dương vật gọi là vành qui đầu. Thông thường qui đầu được bao trong một nếp da niêm mạc gọi là bao qui đầu phía dưới xếp lại thành một hàm.

2. Cấu tạo

2.1. Các bao dương vật

Gồm có da, lớp tổ chức dưới da, mạc dương vật nông, mạc dương vật sâu và lớp trong cùng là lớp trắng bao bọc quanh hai vật hang và tạo nên vách giữa của dương vật.

2.2. Các tạng cương

Vật hang dương vật gồm hai ống hình trụ nằm ở mặt lưng, phía sau dính vào ngành ngồi mu, có cơ ngồi hang bọc chung quanh. Vật xốp dương vật bao bọc quanh niệu đạo, phía trước phình to ra thành qui đầu, phía sau cũng phình to tạo nên hình xốp

So sánh nhau sờ tinh hoàn năm 2024
Hình 5. Cấu tạo dương vật

1. Quy đầu 2. Vật hang 3. Hành xốp 4. Trụ dương vật

3. Mạch máu và thần kinh

Động mạch nuôi dưỡng dương vật xuất phát từ động mạch thẹn trong, gồm có động mạch mu dương vật nằm ở giữa lớp trắng và mạc dương vật sâu và động mạch sâu dương vật nằm ở trung tâm của vật hang.

Tĩnh mạch mu dương vật nằm ở phía lưng dương vật đổ về đám rối tĩnh mạch quanh bàng quang. Hiện tượng cương dương vật có thể do sự giản các động mạch dẫn đến sự gia tăng dòng máu trong vật hang, cùng lúc có sự ứ trệ tuần hoàn trong các tĩnh mạch.

Dây thần kinh của hiện tượng cương dương vật là những sợi ly tâm của các dây thần kinh tuỷ S2, S3 và S4, trong khi dây thần kinh mu dương vật là đường cảm giác.