Quan điểm về mục đích sử dụng hồ sơ học tập

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo đang là vấn đề thách thức của toàn cầu. Hiện nay các
quốc gia trên thế giới đang nỗ lực đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đào tạo với nhiều mô hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng qui mô, nâng
cao tính tích cực trong dạy học và học một cách toàn diện, dạy làm sao để giúp
người học hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ
động. Muốn vậy cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các thành tố liên quan,
trong đó phương tiện dạy và học là một thành tố quan trọng.
- Những định hướng đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá đã
được nêu rõ trong nghị quyết TW2, khóa VIII của Đảng. Chiến lược phát triển
giáo dục 2001  2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg
ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ) đã ghi rõ: Đổi mới và
hiện đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động,
thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình
tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự nhận thông tin một
cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi
cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá
trình học tập....
- Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ thông tin (CNTT) và
truyền thông (Information and Communications Technology  ICT) và việc tác
động của nó vào quá trình đào tạo đã làm thay đổi hoàn toàn những tập quán
quen thuộc trong hoạt động dạy của giáo viên (GV) và hoạt động học của học
sinh (HS). Việc ứng dụng khoa học  công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng
trong việc nắm bắt các cơ hội phát triển mới, rút ngắn khoảng cách giữa các
quốc gia, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Điều đó
được thể hiện sâu sắc hơn khi các phương tiện dạy học được ứng dụng CNTT và
các phương tiện phục vụ quá trình dạy học ngày càng được đổi mới; những
thành tựu của CNTT ngày càng được ứng dụng nhiều nhằm phát huy tối đa tính
tích cực, chủ động của HS trong các bộ môn khác nhau, qua đó bồi dưỡng khả
năng tự học, tự rèn luyện và vận dụng các kĩ năng kiến thức vào thực tiễn, đồng
thời đem lại niềm vui, hứng thú học tập của HS.
- Thực tiễn dạy học ở các trường THPT hiện nay chỉ ra rằng một số GV đã
tiến hành đổi mới phương pháp và sử dụng khá thành công việc ứng dụng hồ sơ
dạy học vào trong quá trình giảng dạy. Trong thực tế, việc xây dựng và sử dụng
hồ sơ dạy học điện tử đang ngày càng phổ biến và được ứng dụng vào nhiều lĩnh
vực trong đời sống và việc thiết kế nó không chỉ dừng lại ở dạng mẫu, dùng cho
nhiều đối tượng HS và sử dụng trong nhiều điều kiện khác nhau mà còn cần
cung cấp các công cụ hỗ trợ khác như bài soạn mẫu, hệ thống thông tin, hình
ảnh, video, biểu đồ, bản đồ nhằm giúp GV nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy
phù hợp với năng lực của mình và trình độ của HS, đồng thời cũng là nguồn tài
liệu tham khảo cho HS trong quá trình học tập.
1

Trong bối cảnh nêu trên, tôi quyết định lựa chọn vấn đề Xây dựng và sử
dụng hồ sơ dạy học điện tử trong giảng dạy địa lí 10 THPT làm đề tài nghiên
cứu của bản thân trong khuôn khổ khóa luận về giáo dục học, chuyên ngành Lí
luận và Phương pháp giảng dạy Địa lí.
2. Lịch sử nghiên cứu
Hồ sơ dạy học điện tử (HSDHĐT) được xây dựng dựa trên nền tảng là hồ
sơ dạy học. Hồ sơ dạy học được sử dụng là một tập hợp hệ thống tài liệu để thể
hiện thành tích trong giảng dạy của GV đã được nghiên cứu, thử nghiệm và sử ở
Canada vào những năm 70 của thế kỉ XX. Việc sử dụng HSDHĐT đã gia tăng
nhanh chóng, rộng rãi từ năm 1991 khi mà nghiên cứu của Peter Seldin về
HSDHĐT công bố trong quyển sách The Teaching Portfolio: A Practical Guide
to Improved Permance and Promotion/Tenure Decisions.
Vào những năm 1997, những công trình nghiên cứu của Peter Seldin đã
được tái bản lần hai để chứng minh cho một điều là HSDH ngày càng được
nghiên cứu và sử dụng rộng rãi. Theo ông, HSDH là một bản ghi thể hiện khả
năng trong giảng dạy, là một mẫu giống như một số hồ sơ của một nghệ sĩ hay
kĩ sư, HSDH chứa đựng những chứng cứ để chứng minh khả năng giảng dạy của
GV trong trường, trong đó nó bao gồm hệ thống tài liệu và đồ dùng dạy học
được thu thập để chỉ ra chuyên môn và chất lượng của một GV thành công.
Trong thời gian gần đây, HSDH được nhiều nhà khoa học quan tâm và tiếp
tục nghiên cứu. Tiêu biểu là các công trình của Campbell, Dorothy M.
Ở Việt Nam, nhiều nhà lí luận dạy học và nghiên cứu sư phạm đã có những
công trình nghiên cứu về HSDH được công bố. Trong đó, phải kể đến bài viết
Xây dựng và phát triển hồ sơ dạy học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
đại học của tiến sĩ Đinh Thị Kim Thoa  Tổ trưởng tổ Tâm lí, Khoa Sư phạm,
Trường Đại học quốc gia Hà Nội, đăng trên Tạp chí Giáo dục, số 124, tháng 10
năm 2005. Tác giả cho rằng Hồ sơ dạy học không giới hạn ở tập giáo án hay
các bài soạn, tài liệu sưu tập của các GV và cũng không phải là một quyển
sách để nhớ lại nhưng gì đã làm được. Hồ sơ dạy học là tập tài liệu được tổ
chức theo một mục nhất định về sự phát triển nghề nghiệp và những khả năng đã
đạt được trong hoạt động dạy học....
Trước đây, hình thức lưu trữ chủ yếu của HSDH chủ yếu là giấy, thường
được chứa đựng trong những thùng, những quyển. Chính vì vậy, mặc dù HSDH
là một phương tiện tối ưu phục vụ cho GV trong công tác giảng dạy, nhưng hạn
chế của những bộ tài liệu này là khả năng truyền tải, mô phỏng hiện thực khách
quan, đời sống thực tế không sinh động và đầy màu sắc như HSDHĐT được
sáng tạo và thiết kế nhờ sự giúp đỡ của CNTT.
Từ những thập niên 90 của thế kỉ XX, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
HSDHĐT được thực hiện, tiêu biểu là công trình The Digital Portfolio, A
Richer Picture of Student Performance, Coalition of Essential Schools, October
1993 của Niguidul, Dvid; công trình nghiên cứu của tiến sĩ Helen Barrett,

2

Alaska Anchorage University: Electronic Portfolio Development (2000),
Electronic Teaching Portfolios;...
HSDHĐT là một vấn đề tương đối mới trong nước ta, những sản phẩm ban
đầu mới chỉ phục vụ công tác soạn giáo án điện tử dùng giảng dạy trên lớp là
chủ yếu như bài giảng điện tử, giáo án điện tử, sách điện tử Để thiết kế một
sản phẩm tập hợp một cấu trúc hợp lí theo mục đích dạy học nhất định và bao
gồm tất cả các thành phần cơ bản của quá trình dạy học đã được nghiên cứu
bước đầu. Tiêu biểu là đề tài Bước đầu nghiên cứu và xây dựng hồ sơ điện tử
phục vụ cho dạy học địa lí lớp 11 ban nâng cao được tiếp nhận và có những tác
động mạnh mẽ đến quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Như vậy, chúng ta có thể thấy thiết kế và xây dựng HSDHĐT là một hướng
đi mới được đánh giá cao trong việc sử dụng CNTT để đổi mới giáo dục hiện
nay của nước nhà.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu quan trọng nhất của khóa luận là xây dựng được bộ HSDHĐT
Địa lí lớp 10 THPT một cách khoa học, có tính khả thi và có thể trở thành công
cụ hữu hiệu giúp GV đổi mới phương pháp dạy học Địa lí lớp 10 THPT.
3.2. Nhiệm vụ
Để hoàn thành tốt mục tiêu đã nêu ra ở trên, đề tài phải thực hiện tốt các
nhiệm vụ sau:
- Trước tiên, đưa ra cơ sở lí luận, thực tiễn của việc xây dựng và sử dụng
HSDHĐT nhằm phục vụ giảng dạy môn Địa lí lớp 10 THPT (ban cơ bản).
- Thứ hai, bước đầu đưa ra được sơ sở, nguyên tắc, quy trình thiết kế
HSDHĐT và phương pháp sử dụng HSDHĐT trong thực tiễn giảng dạy môn
Địa lí lớp 10 THPT.
- Xây dựng một HSDHĐT có thể đưa vào áp dụng trong giảng dạy Địa lí
10 THPT.
- Cuối cùng, kiểm nghiệm về mặt sư phạm thông qua việc ứng dụng thử
nghiệm HSDHĐT trong quá trình dạy học của GV phổ thông. Qua đó đề xuất
cách thức và biện pháp hoàn thiện các HSDHĐT đã xây dựng được.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Đề tài nghiên cứu tập trung chủ yếu trên địa bàn tỉnh Sơn La.
- Thời gian: Tiến hành nghiên cứu từ tháng 01/2013 đến tháng 04/2013.
- Đối tượng: Đề tài tập trung tìm hiểu việc thiết kế, xây dựng HSDHĐT
cho một số bài học môn Địa lí lớp 10 THPT ban cơ bản.

3

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích hệ thống
- Căn cứ vào mục đích nhiệm vụ của đề tài, tôi đã tiến hành thu thập, phân
tích tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như trong các sách báo, tạp chí, các luận
văn, các công trình đề tài nghiên cứu khoa học, các phần mềm nghiên cứu ứng
dụng vào học tập có liên quan.
- Để việc thiết kế HSDHĐT đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục, tôi
chú ý đến việc nghiên cứu tài liệu chuẩn cho việc xây dựng HSDHĐT là SGK
Địa lí 10 THPT hiện hành thuộc ban cơ bản, các tài liệu về tâm lí học đại
cương, tâm lí học sư phạm, tâm lí học lứa tuổi để đảm bảo cho việc thiết
HSDHĐT đạt hiệu quả cao nhất.
5.2. Phương pháp thu thập tài liệu
Đây là cơ sở để nghiên cứu nội dung, chương trình, các bài học trong SGK
Địa lí 10 THPT. Để đảm bảo tính khoa học, các đối tượng nghiên cứu phải được
xem xét và phân tích trong một hệ thống hoàn chỉnh.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học trong việc xử lí kiểm tra đánh giá
kết quả đạt được qua tìm hiểu thực tế, qua thực nghiệm các bản thiết kế
HSDHĐT Địa lí lớp 10 THPT, xử lí số liệu thống kê để từ đó thấy được kết quả
mà HSDHĐT mang lại cũng như hạn chế cần khắc phục.
5.4. Phương pháp điều tra quan sát
Việc áp dụng các phương pháp phương tiện dạy học cho phù hợp với khả
năng của học sinh là một quá trình thử nghiệm lâu dài, đòi hỏi người GV phải có
nhiều kinh nghiệm.
5.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Thực hiện phương pháp này bằng cách tiến hành kiểm nghiệm, điều tra,
khảo sát, lấy ý kiến, đánh giá về tính khả thi, thực tiễn của HSDHĐT thông qua
GV, người trực tiếp sử dụng sản phẩm, ở một số trường THPT tỉnh Sơn La. Từ
đó rút ra kinh nghiệm và bổ sung những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên
cứu.
- Sử dụng các phiếu thăm dò ý kiến GV và các phiếu kiểm tra kết quả học
tập của HS để đánh giá những kết quả thu được và tính khả thi của đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu, tổng hợp, hệ thống hóa và tiếp thu những cơ sở lí luận cơ
bản của việc xây dựng và sử dụng HSDHĐT trong quá trình giảng dạy môn Địa
lí lớp 10 THPT.
- Đưa ra sơ sở, nguyên tắc, quy trình thiết kế HSDHĐT môn Địa lí, xây
dựng HSDHĐT cho một số bài học môn Địa lí lớp 10 THPT ban cơ bản.

4

- Từ việc kiểm nghiệm về mặt sư phạm thông qua ứng dụng thử nghiệm
HSDHĐT trong quá trình giảng dạy của GV phổ thông để đề xuất cách thức và
biện pháp hoàn thiện các HSDHĐT đã xây dựng được.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phiếu điều
tra, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng và sử dụng
HSDHĐT trong giảng dạy Địa lí 10 THPT.
Chương 2: Xây dựng và sử dụng HSDHĐT trong giảng dạy Địa lí 10
THPT (ban cơ bản).
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

5

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỒ SƠ DẠY HỌC ĐIỆN TỬ TRONG
GIẢNG DẠY ĐỊA LÍ 10 THPT (Ban cơ bản)
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1. Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát
triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước.
Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng lớn: cách mạng khoa
học công nghệ và cuộc cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng này đang phát
triển như vũ bão với nhịp độ nhanh chưa từng có trong lịch sử loài người, thúc
đẩy nhiều lĩnh vực có những bước tiến mạnh mẽ và mở ra triển vọng hết sức lớn
lao, khi loài người bước vào thế kỉ XXI.
- Xuất phát từ thực tế dạy học Địa lý hiện nay: Nhìn chung chưa đổi mới.
Các PPDH truyền thống vẫn được sử dụng nhiều, các phương tiện thiết bị dạy
học còn thiếu, do vậy việc dạy học chưa theo kịp sự thay đổi của xã hội.
- Xuất phát từ yêu cầu của xã hội, sự phát triển kinh tế của đất nước còn
chưa đáp ứng được sự phát triển của thời đại:
+ Trước tiên là những yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng lớn là cuộc cách
mạng khoa học công nghệ và cuộc cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng
này đang phát triển nhanh như vũ bão với tốc độ chưa từng thấy trong lịch sử
loài người, thúc đẩy nhiều lĩnh vực có những bước tiến nhanh mạnh mẽ và đang
mở ra những triển vọng hết sức lớn lao khi loài người bước vào thế kỷ XXI.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đòi hỏi nhà trường phải tạo ra
những con người mới, thông minh sáng tạo, thích ứng được với yêu cầu mới của
thời đại, có tri thức khoa học tiên tiến, có kỹ năng, kỹ xảo vững chắc, có ý thức
nghề nghiệp để giải quyết "đúng, nhanh, sáng tạo" các nhiệm vụ thực tiễn đặt ra.
+ Những yêu cầu mới của cuộc cách mạng xã hội đòi hỏi ngành Giáo dục
phải đào tạo ra những con người có đầu óc khoa học, có trình độ học vấn cao,
biết sử dụng các quy luật tự nhiên và xã hội để xây dựng cuộc sống. Con người
có tính nhân bản cao, có ý thức chấp hành pháp luật, có tinh thần dân tộc, biết
giữ gìn và phát huy truyền thống tinh hoa của dân tộc. Con người có cá tính và
bản sắc riêng, có ý chí hoài bão, tự chủ, tự giác.
+ Những yêu cầu của nền kinh tế, chính trị của đất nước: Việt Nam đang
bước vào thời kỳ mới, thời kì mở cửa chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
6

hướng XHCN. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi phải có những con người lao
động tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề do thực tiễn
đề ra, tự lo liệu được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống, góp
phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đứng trước tình hình đó nền giáo dục cần phải đổi mới cho phù hợp với
yêu cầu của thời đại. Đổi mới nền giáo dục đòi hỏi phải đổi mới cả về mục tiêu,
nội dung và PPDH. Thực tế từ những năm 2000, những đổi mới về mục tiêu, nội
dung chương trình và SGK phổ thông đã được tiến hành khẩn trương trên phạm
vi cả nước, nó tạo ra cơ sở quan trọng cho việc đổi mới PPDH.
1.1.2. Quá trình dạy học theo quan điểm đổi mới
- Quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của hai thành tố cơ bản
trong quá trình dạy học  hoạt động dạy và hoạt động học.
Quá trình dạy học bao gồm các thành tố: phương tiện dạy học, mục đích,
nhiệm vụ, nội dung dạy học, hoạt động của GV - HS tạo thành một thể hoàn
chỉnh và có quan hệ biện chứng thúc đẩy quá trình dạy học đạt được mục đích
nhất định. Vì vậy việc vận dụng và tiến hành các PPDH không thể tách rời việc
sử dụng các phương tiện dạy học. Có thể minh hoạ quá trình dạy học theo sơ đồ
sau:

Hình 1.1: Sơ đồ quá trình dạy học [2]
Dạy và học là 2 hoạt động tác động và phối hợp với nhau, nếu thiếu một
trong 2 hoạt động đó thì quá trình dạy học không diễn ra. Hoạt động dạy của
người GV: Là hoạt động lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức
học tập của HS, giúp HS tìm tòi, khám phá tri thức, qua đó thực hiện có hiệu quả
chức năng học của bản thân.
- Hoạt động dạy của người GV là sự điều khiển tối ưu hóa quá trình
HS chiếm lĩnh khái niệm khoa học, góp phần hình thành và phát triển nhân cách.
Khái niệm khoa học là điểm xuất phát của dạy, lại là điểm kết thúc của học.
Quá trình dạy học là hoạt động cộng đồng  hợp tác giữa các chủ thể là thầy  cá
thể trò, trò  trò trong nhóm, thầy  nhóm trò Sự tương tác theo kiểu cộng
đồng  hợp tác giữa dạy và học là yếu tố duy trì và phát triển sự thống nhất toàn
vẹn của quá trình dạy học, nghĩa là của chất lượng dạy học.
- Hoạt động học của HS là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ
chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức  học tập của mình nhằm thu nhận, xử
7

lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó người học
thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình.
Như vây, dạy học phải là một quá trình dưới sự hướng dẫn, tổ chức, điều
khiển của GV, HS tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, biết tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện tốt mục
tiêu dạy học.
Trước những định hướng đổi mới của nền giáo dục nước nhà, nhiệm vụ đặt
ra cho GV trong giai đoạn hiện nay là phải cụ thể hóa được xu hướng đổi mới
trên của nền giáo dục Việt Nam. Muốn thế, GV phải tạo được những công cụ
thích hợp để tăng cường tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, thiết kế
bài học theo xu hướng tổ chức hoạt động cho người học, quy trình hóa được các
hoạt động, xác định cụ thể đối tượng, quy trình tác động và sản phẩm cần đạt
1.1.3. Khái quát về hồ sơ dạy học điện tử
1.1.3.1. Hồ sơ dạy học
Ngay từ đầu những năm 1990 đã có những sáng kiến là đưa hệ thống hồ sơ
dạy học vào một dạng lưu trữ mới mà ở đó có thể quản lí và cập nhật tư liệu dễ
dàng bằng việc sử dụng công nghệ hiện đại, có thể sử dụng máy vi tính hoặc
chạy trực tiếp trên đầu đĩa gia đình, với mục đích chính là thể hiện trình độ
chuyên môn của tác giả.
Thuật ngữ "Hồ sơ dạy học" cũng không phải xa lạ đối với các nhà giáo của
chúng ta. Tuy nhiên, hồ sơ này không phải được thực hiện ở tất cả mọi cấp học,
đặc biệt ở bậc đại học và nếu có thì những Hồ sơ này cũng không được thực
hiện một cách triệt để, đầy đủ và tự nguyện. Hồ sơ dạy học không mang tính
hình thức như nhiều người nghĩ, mà nó thực sự là kết quả lao động nghiêm túc
của người GV, nếu chúng ta quan niệm đúng về giá trị của nó. Trong bài viết
này, người viết sử dụng thuật ngữ "Hồ sơ dạy học" với mục đích đề cập một
cách toàn diện chức năng và nhiệm vụ của người GV. Thông qua "Hồ sơ dạy
học" này, người GV có thể nhìn thấy một cách rõ ràng công việc của họ, những
tiến bộ cũng như những điều có thể rút kinh nghiệm.
1.1.3.2. Hồ sơ dạy học điện tử
- HSDHĐT, thường được gọi là ePorfolio hay Digital Porfolio, là một bộ
sưu tập bằng chứng điện tử (trong 1 sản phẩm bao gồm văn bản ở dạng Word
hay PDF, hình ảnh, âm thanh, video, blog.) được tập hợp và quản lí bởi người
sử dụng chúng, thông thường đưa lên mạng internet với mục đích không chỉ thể
hiện khả năng, trình độ chuyên môn của bản thân mình mà còn làm tài liệu tham
khảo cho độc giả.
Theo định nghĩa trên, một tập hợp các bằng chứng điện tử được lưu giữ
trong một sản phẩm và đưa lên mạng được gọi là HSDHĐT. Trong quá trình
trực tuyến trên mạng, hệ thống tài liệu được nhận xét và cập nhật thường xuyên
từ độc giả, một số tiêu mục trong sản phẩm độc giả có thể chỉnh sửa theo quan
điểm, chuyên môn và dùng làm sản phẩm riêng cho mình. Định nghĩa trên đã
nêu lên khá đầy đủ về khái niệm cũng như chức năng của HSDHĐT, song định
8

nghĩa còn hạn chế là hình thức lưu giữ chỉ được đề cập đến với mức độ là một
trang web được đưa lên mạng, gây khó khăn cho những độc giả chưa tiếp xúc
với mạng hay không thể kết nối mạng ngay tại nhà.
- Nhà khoa học tên Yolanda Abrenica quan niệm về HSDHĐT như sau:
+ Có nhiều lợi ích khi sử dụng HSDHĐT. Với những hồ sơ truyền thống
chúng được lưu giữ trong những thùng lớn với dạng chủ yếu là giấy, chúng mất
nhiều khoảng không gian và khó di chuyển cũng như cập nhật thông tin. Đối với
HSDHĐT, thông tin có thể dễ dàng lưu trữ dưới dạng file điện tử và ghi vào
những đĩa CD hay những dạng khác, ít tốn không gian cũng như cập nhật
thường xuyên, tiện dụng cho người thiết kế lẫn sử dụng.
+ Không những được lưu giữ trong một khoảng không gian nhỏ mà
HSDHĐT còn chứa nhiều thông tin từ hình ảnh, âm thanh, nhạc, đồ họa và thậm
chí cả video thể hiện được khả năng và trình độ của tác giả. Không những tiện
ích cho GV và HS trong quá trình giảng dạy, học tập mà còn là một sản phẩm
dùng để đánh giá (nhà trường, gia đình hay xã hội).
+ HSDHĐT đòi hỏi phải tăng cường máy vi tính và kĩ năng sử dụng chúng,
GV và sinh viên có được những kinh nghiệm trong quá trình tạo ra chúng thông
qua các giai đoạn: thu thập, lựa chọn, tổ chức, chỉnh sửa và đánh giá
Mặc dù không nên lên một khái niệm cụ thể về HSDHĐT, song Yolanda
Abrenica đã có những quan điểm mới về vấn đề này:
+ Thứ nhất, tác giả đã nêu lên hai đối tượng thành lập HSDHĐT là GV và
sinh viên. Không những GV thành lập HSDHĐT với mục đích giảng dạy mà
sinh viên cũng có thể tự tạo ra cho mình một sản phẩm để thể hiện mức độ nhận
thức, hiểu biết, sự phát triển của bản thân trong quá trình học tập. Trong quá
trình tạo ra sản phẩm đó, sinh viên trao đổi với bạn học, hỏi ý kiến GV, hoàn
thiện hơn và khi kết thúc khóa học, họ có một sản phẩm để chia sẻ với bạn bè,
đồng nghiệp. đồng thời đó cũng là cơ sở để đánh giá.
+ Thứ hai, tác giả đã nêu lên được lợi ích của HSDHĐT so với bộ hồ sơ
truyền thống, đặc biệt là hình thức lưu giữ tài liệu đơn giản ở dạng ghi vào đĩa
CD và một số dạng khác với các ưu điểm là gọn nhẹ, đơn giản, dễ sử dụng và
lưu giữ được nhiều thông tin.
+ Thứ ba, tác giả đã nêu lên các thành phần cơ bản của HSDHĐT và quy
trình thành lập chúng, tập hợp các file điện tử từ hình ảnh, âm thanh, nhạc, đồ
họa và thậm chí cả video được thu thập, lựa chọn, tổ chức, chỉnh sửa và đánh
giá. Chúng được lưu giữ làm bằng chứng cho sự phát triển chuyên môn của bản
thân.
- Ngoài các quan niệm trên, còn rất nhiều các quan điểm khác về
HSDHĐT. Trên cơ sở phân tích lí luận và thực tiễn dạy học ở nước ta, một số
nhà khoa học đã đưa ra quan điểm về HSDHĐT như sau:
HSDHĐT là một hệ thống hay một ngân hàng dữ liệu đã được điện tử hóa,
được sắp xếp trong một cấu trúc hợp lí theo mục đích dạy học nhất định và nó
thường bao gồm các thành phần cơ bản như giáo án với các slides trình chiếu,
kiến thức cơ bản, các nguồn tài nguyên (hình ảnh, âm thanh, dữ liệu những đoạn
video, trang web) được lưu giữ trong các đĩa nén, mạng nội bộ, đĩa CD hay
trang web.
9

1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Thực trạng của việc xây dựng và sử dụng HSDHĐT trong dạy học
địa lí 10 THPT
Qua quá trình tìm hiểu việc xây dựng ứng dụng HSDHĐT vào giảng dạy,
có thể thấy rằng HSDHĐT có nhiều ưu điểm hơn HSDH truyền thống. Đó là
không gian lưu trữ nhỏ, dễ dàng sao lưu, di chuyển dễ dàng, bảo quản lâu dài,
người học là trọng tâm, phát triển những kĩ năng trong công nghệ, thông qua
ICT những liên kết siêu văn bản được thiết lập để chứng minh được trình độ
chuyên môn dễ dàng, tiếp cận dễ dàng hơn.
Nhận thức rõ vai trò của CNTT, HSDHĐT ngày càng được quan tâm chú
trọng đầu tư nghiên cứu và phát triển. Nghị quyết TW IV, BCH TW Đảng khoá
VII đã nhấn mạnh: Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những chương
trình của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước và phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội. Nhìn lại những năm vừa qua,
chúng ta thấy nội dung giáo dục ít gắn liền với nhu cầu của cuộc sống hàng ngày
và lại được giảng dạy bằng một phương pháp lạc hậu: Thầy đọc, trò ghi; Do đó
sản phẩm giáo dục con người thường thiếu sự năng động, sáng tạo, lúng túng, bỡ
ngỡ, thậm chí bất lực trước những đòi hỏi của cuộc sống vốn rất đa dạng và luôn
luôn biến động.
Để khắc phục những tồn tại trên và để hoà đồng với nhịp độ phát triển
chung của các nước trên thế giới, trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã có những cố gắng trong việc tăng cường trang thiết bị cho nhà
trường, cung cấp thêm nhiều máy tính, mở rộng, nâng cao trình độ giảng dạy và
ứng dụng tin học cho đội ngũ GV làm cơ sở cho việc phát huy PPDH mới tiên
tiến, khuyến khích những người nghiên cứu, các GV biên tập, thiết kế, xây dựng
các sản phẩm, các phần mềm phục vụ cho dạy và học từng bộ môn.
Đối với môn Địa lí, việc đổi mới cách giảng dạy và thiết kế HSDHĐT đã
có những thay đổi lớn. Ngay từ những năm đầu của thập niên 60 đến những năm
cuối của thập niên 90, việc xây dựng các tiết giảng của GV Địa lí hoàn toàn theo
mẫu truyền thống. Mục đích của các tiết giảng này là làm sao truyền thụ được
nội dung thông tin định sẵn, theo cách hiểu của người GV. Vì thế, GV chỉ chú ý
tới việc sắp xếp bài giảng theo một logic sao cho thích hợp với nội dung truyền
đạt (SGK). Như vậy, cấu trúc logic của bài giảng truyền thống chỉ dựa vào logic
của bài và logíc lập lụân của người trình bày, không tính đến logic tiếp nhận của
chủ thể HS là nhân vật trung tâm của quá trình nhận thức.
HSDHĐT thường được dùng để giảng dạy, đó là việc thông qua bài giảng
và giáo án điện tử đã được biên soạn, tác giả hoặc độc giả có thể sử dụng trực
tiếp để giảng dạy; HSDHĐT là một công cụ dùng để đánh giá chất lượng chuyên
môn của GV, đánh giá quá trình phát triển chuyên môn, nghề nghiệp của họ; bên
cạnh đó, HSDHĐT còn dùng để nghiên cứu và biên soạn bài giảng, đối với tác
giả, việc giảng dạy bằng sản phẩm của mình làm ra là điều dễ dàng, nhưng đối
với độc giả (đồng nghiệp) lại là một vấn đề khó khăn, còn đối với HS, thông qua
hệ thống công cụ được cung cấp HS tích cực hơn trong quá trình chiễm lĩnh tri
10

thức. Ngoài ra, HSDHĐT còn là một công cụ cần thiết cho độc giả, những người
quan tâm đến sự phát triển của giáo dục nước nhà quan tâm và đóng góp ý kiến.
Trên thực tiễn, HSDHĐT là nội dung mới, có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều
nhà giáo dục cũng đã có các công trình về vấn đề này. Tuy nhiên, phải nhận thấy
rằng, việc xây dựng và sử dụng HSDHĐT vào giảng dạy ở các trường phổ thông
chưa đồng bộ và còn nhiều tồn tại cần khắc phục:
+ Trình độ tin học của đa phần GV còn hạn chế nên việc ứng dụng CNTT
trong TKBG Địa lí còn ít, chưa nói đến việc tự biên tập, thiết kế, xây dựng
HSDHĐT phục vụ quá trình giảng dạy. Chỉ có một số trường có khả năng và
một số GV có điều kiện để làm được việc này.
+ Các phương tiện thiết bị dạy học hiện đại ở các trường phổ thông đã được
trang bị nhưng còn thiếu và chưa đồng bộ. Chưa có phòng học máy tính riêng
cho bộ môn Địa lí nên mỗi lần sử dụng rất phức tạp, mất thời gian, nhiều GV
thường ngại không muốn sử dụng.
+ Việc sử dụng phối hợp các phần mềm khác nhau để bổ sung nguồn tư
liệu cho bài giảng, đồng thời cũng là quá trình tìm hiểu trong việc xây dựng và
sử dụng HSDHĐT của GV, cũng như việc phối kết hợp các phương tiện hiện đại
trong quá trình dạy học trên lớp còn nhiều lúng túng, ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả dạy học.
Vì vậy, việc đổi mới PPDH nói chung và xây dựng bộ HSDHĐT phục vụ
cho quá trình giảng dạy môn Địa ở các trường phổ thông vẫn cần được quan
tâm, triển khai đồng bộ và sâu rộng hơn nữa.
1.2.2. Đặc điểm, nội dung chương trình SGK Địa lí 10 THPT
1.2.2.1. Cấu trúc, chương trình SGK Địa lí 10 THPT
Chương trình môn Địa lí được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là một bộ
phận quan trọng trong tổng thể chương trình môn Địa lí ở phổ thông. Chương
trình Địa lí ở phổ thông được thiết kế theo kiểu đồng tâm với ba khối kiến thức
chủ yếu về địa lí đại cương (tự nhiên và kinh tế - xã hội), Địa lí thế giới (Địa lí
khu vực) và Địa lí Tổ quốc (tự nhiên và kinh tế - xã hội). Các kiến thức này bắt
đầu được đưa vào từ bậc tiểu học (phần nhiều trong môn Tự nhiên và xã hội)
dưới dạng đơn giản, rồi trở thành một môn học độc lập ở bậc Trung học cơ sở và
được hoàn thiện ở bậc THPT. Do đó chương trình Địa lí lớp 10 là một phần của
chương trình Địa lí THPT, một mặt kế thừa, nâng cao các kiến thức đã có ở bậc
THSC, mặt khác là tiền đề cho việc trang bị kiến thức tiếp theo ở các lớp 11 và
lớp 12.
Chương trình môn Địa lí lớp 10 bao gồm 2 phần là địa lí tự nhiên và địa lí
kinh tế - xã hội. So với chương trình Địa lí lớp 10 đại trà (từ năm học 2005
2006 trở về trước), chương trình này hoàn thiện hơn, khoa học hơn và cập nhật
hơn.
* Phần Địa lí tự nhiên:

11

Về mặt lí thuyết, phần này gồm 4 chương, 21 bài (trong đó riêng bài 9 là 2
tiết còn các bài khác là 1 tiết), bao gồm 18 bài lí thuyết và 3 bài thực hành. Phần
này tập trung vào 4 nội dung:
+ Bản đồ: Để giúp cho HS học tập tốt môn Địa lí, các kiến thức tối thiểu về
bản đồ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các kiến thức này được sử dụng không
chỉ đối với lớp 10 mà còn cho cả lớp 11 và 12. Kế thừa những kiến thức đã có về
bản đồ học ở THCS, chương trình này làm nổi bật các phép chiếu hình bản đồ
cơ bản cũng như một số phương pháp biểu hiện các đối tượng địa lí trên bản đồ,
sử dụng bản đồ trong học tập và đời sống.
+ Vũ trụ. Hệ quả các chuyển động của Trái Đất: Các nội dung chính được
đưa vào là vũ trụ, hệ Mặt Trời, Trái Đất và hệ quả của vận động tự quay cũng
như hệ quả của sự chuyển động quay quanh Mặt Trời của Trái Đất.
+ Cấu trúc của Trái Đất. Các quyển của lớp vỏ Địa lí: Các nội dung chính
là cấu trúc của Trái Đất; Thạch quyển, tác động của nội lực, ngoại lực đến địa
hình bề mặt Trái Đất; Khí quyển; Thủy quyển; Thổ nhưỡng quyển và sinh
quyển.
+ Một số quy luật chủ yếu của lớp vỏ Địa lí: Sau khi giới thiệu khái quát về
lớp vỏ Địa lí, 3 quy luật chính được đưa vào chương trình là quy luật thống nhất
và hoàn chỉnh của lớp vỏ Địa lí, quy luật địa đới và quy luật phi địa đới.
- Về mặt thực hành, các nội dung đều tập trung vào việc làm rõ hơn lí
thuyết và rèn luyện kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, các thành phần tự nhiên cũng
như vẽ và phân tích biểu đồ liên quan đến các hiện tượng tự nhiên.
* Phần Địa lí kinh tế - xã hội:
- Về mặt lí thuyết, phần này gồm 6 chương, 21 bài, trong đó có 17 bài lí
thuyết và 4 bài thực hành. Các nội dung chính:
+ Địa lí dân cư: Các nội dung bao gồm dân số và sự gia tăng dân số; cơ cấu
dân số; phân bố dân cư, các loại hình quần cư và đô thị hóa.
+ Cơ cấu nền kinh tế.
+ Địa lí nông nghiệp.
+ Địa lí công nghiệp.
+ Địa lí dịch vụ.
+ Môi trường và sự phát triển bền vững.
- Về mặt thực hành, nội dung chương trình nhằm vào việc rèn luyện kĩ
năng phân tích số liệu thống kê, xây dựng biểu đồ trên cơ sở số liệu cho trước
cũng như đọc và phân tích bản đồ dân cư, bản đồ kinh tế - xã hội.
1.2.2.2. Đặc điểm nội dung
Về nội dung chương trình Địa lí 10 THPT được thể hiện thông qua hệ
thống kênh chữ, kênh hình và hệ thống câu hỏi  bài tập. Như vậy, có thể coi
tổng thể kênh chữ, kênh hình và câu hỏi  bài tập chính là nội dung của SGK.
12

Các thành tố này tuy có vai trò riêng nhưng lại tạo nên nội dung hoàn chỉnh,
thống nhất của SGK.
- Kênh chữ: Chiếm tỉ lệ lớn nhất trong khối lượng của SGK cũng như của
phần Địa lí tự nhiên. Đây có thể coi là kiến thức rất cơ bản, được chọn lọc kĩ
lưỡng sao cho vừa cô đọng, khúc triết vừa phù hợp với trình độ của học sinh.
- Kênh hình nhìn chung khá đa dạng, bao gồm nhiều bản đồ, sơ đồ, biểu đồ
và hình ảnh. Trong quá trình biên soạn, kênh hình, nhất là các hình ảnh đã được
lựa chọn từ các cuốn SGK hay giáo trình có liên quan của một số nước trên thế
giới nhằm vừa đảm bảo tính mỹ thuật, tính khoa học và tính sư phạm. Đối với
phần Địa lí tự nhiên, kênh hình có ý nghĩa đặc biệt đối với quá trình nhận thức
của học sinh.
- Các câu hỏi  bài tập được thiết kế hoặc là xen với kênh chữ để định
hướng, gợi mở cho học sinh, hoặc là ở cuối bài nhằm chốt lại kiến thức cơ bản,
củng cố và rèn luyện kĩ năng. Đây cũng là nội dung quan trọng cần được khai
thác có hiệu quả trong tiến trình dạy  học.
1.2.3. Đặc điểm tâm  sinh lí học sinh lớp 10 THPT
1.2.3.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi
HS THPT đã có sự trưởng thành hơn HS THCS về mặt nhận thức tư duy,
tình cảm, giao tiếp. Các em đang ở trong độ tuổi nhạy cảm nhất, chân trời tri
thức và các mối quan hệ được mở rộng nên nhận thức của các em được nâng lên
một tầm cao mới.
Các em thích khám phá cái mới, thích thể hiện khả năng của mình trước tập
thể. Ở các em đã hình thành ý thức bản thân, giao tiếp bạn bè và phát triển tư
duy, lí luận, óc sáng tạo, tính phê phán. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi
của mình trong hiện tại như lứa tuổi thiếu niên mà còn nhận thức về vị trí của
mình trong xã hội. Các em không chỉ có nhu cầu đánh giá mà còn có khả năng
đánh giá một cách sâu sắc về những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của bản thân
và của những người xung quanh. Vì vậy, trong các giờ học địa lí, nếu GV tổ
chức các hoạt động tự chiếm lĩnh kiến thức, các em sẽ dễ dàng đáp ứng được các
yêu cầu mà GV đưa ra.
1.1.3.2. Đặc điểm học tập
Do nội dung học tập của chương trình địa lí THPT có nhiều thay đổi nên
đặc điểm học tập của HS THPT cũng được nâng cao hơn. Ở lứa tuổi này các em
đã có động cơ và thái độ học tập rõ ràng, có khuynh hướng học tập phù hợp với
mục đích lựa chọn nghề nghiệp bởi ở các em đã có mức độ trưởng thành về nhận
thức, tư tưởng cũng như về tâm lý nhằm định hướng cho việc lựa chọn nghề
nghiệp và có quan điểm đúng đắn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Đối với HS lớp 10, năng lực quan sát, nhạy bén và khả năng phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá đang ngày càng phát triển và hoàn
thiện. Tính tích cực và độc lập nhận thức của HS lớp 10 cũng được nâng lên rõ
rệt so với HS các lớp dưới. Các em không thích chấp nhận một cách đơn giản
13

những áp đặt của GV. Các em thường biểu hiện sự thờ ơ, kém hứng thú và mệt
mỏi khi trong suốt tiết học chỉ ngồi nghe GV giảng bài và ghi chép. Các em
thích tranh luận, thích bày tỏ những ý kiến riêng biệt của các nhân mình về
những vấn đề lí thuyết và đặc biệt là những vấn đề liên quan đến thực tiễn cuộc
sống của các em. Đây là một thuận lợi cơ bản mà GV cần khai thác triệt để khi
tiến hành đổi mới PPDH Địa lí lớp 10. Việc xây dựng và sử dụng HSDHĐT
trong quá trình giảng dạy, xây dựng bài học Địa lí sẽ góp phần thu hút sự quan
tâm và phát triển hững thú học tập cho các em đối với bộ môn.
1.1.3.3. Khả năng nhận thức
Đối với HS THPT, hoạt động học tập đã trở thành trách nhiệm rõ rệt thúc
đẩy nhanh chóng mọi khả năng trí tuệ ở các em. Đặc điểm nổi bật về sự phát
triển trí tuệ của lứa tuổi này là tính chủ động, tính chủ định, tính tích cực, tính tự
giác được thể hiện rõ rệt ở tất cả các quá trình nhận thức. Năng lực tư duy, năng
lực tưởng tượng và các khả năng khác ở HS THPT được hoàn thiện nhanh
chóng và có chất lượng cao. Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt
động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ có ý nghĩa
ngày một rõ rệt.
Khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng bộc lộ khá rõ, HS có khả năng
tiếp nhận nguồn tri thức một cách sáng tạo, có thể phân tích, làm sáng tỏ các vấn
đề một cách nhanh chóng. Do đó các em có thể thực hiện các thao tác tư duy
phức tạp như: Phân tích mối quan hệ nhân quả giữa các thành phần tự nhiên hay
mối quan hệ nhân quả giữa tự nhiên với KTXH
Ở bậc học này các em đã có những kiến thức địa lí nhất định, một số kĩ
năng đã được hình thành như kĩ năng đọc bản đồ, kĩ năng so sánh, kĩ năng phân
tích bảng số liệu Do đó GV cần nâng cao yêu cầu của câu hỏi, bài tập để HS
tự lực chiếm lĩnh kiến thức và tự kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của mình.
Như vậy, HS PTTH hoàn toàn có khả năng sử dụng các phương tiện thiết bị
hiện đại trong quá trình học tập. GV có thuận lợi trong việc ứng dụng CNTT vào
dạy học. Tuy nhiên năng lực tư duy của các em cũng chưa thật hoàn thiện như
người trưởng thành, có khi còn vội vàng, thiếu chuẩn xác, do vậy rất cần sự
hướng dẫn của GV để giúp các em nhanh chóng hoàn thiện khả năng nhận thức
của mình. Việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức là một nhiệm vụ quan
trọng của GV, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập
của HS, điều này đòi hỏi phải đổi mới PPDH nói chung và xây dựng HSDHĐT
nói riêng để thực hiện được tốt nhiệm vụ đó.
Tiểu kết chương 1
Trước những định hướng đổi mới của nền giáo dục nước nhà, nhiệm vụ đặt
ra cho GV là phải cụ thể hóa được những định hướng đổi mới đó. Vì vậy, người
GV phải ngày càng sáng tạo, linh hoạt và phải tạo được những công cụ thích
hợp để tăng cường tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, thiết kế bài
học sao cho người học đóng vai trò làm trung tâm. HSDHĐT ra đời đã đáp ứng
được phần nào những yêu cầu đó, nó mang lại cho người GV những thuận lợi
14

nhất định trong quá trình giảng dạy. HS được đóng vai trò chủ đạo hơn trong giờ
học, không còn thụ động như trước. Trên thực tế, việc xây dựng và ứng dụng
HSDHĐT vào quá trình dạy học còn gặp những hạn chế nhất định, đặc biệt là
trang thiết bị và trình độ tin học của GV. Bên cạnh đó, các em HS thích khám
phá cái mới, thích thể hiện khả năng của mình trước tập thể, khả năng lĩnh hội
và hội nhập những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật cũng nhạy bén hơn.
Chính vì vậy, việc đổi mới PPDH nói chung và xây dựng, sử dụng HSDHĐT
trong quá trình giảng dạy môn Địa lí là điều hết sức cần thiết, cần được quan
tâm và triển khai sâu rộng để chất lượng giáo dục ngày càng tốt hơn.

15

Chương 2
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỒ SƠ DẠY HỌC ĐIỆN TỬ TRONG
GIẢNG DẠY ĐỊA LÍ 10 THPT (Ban cơ bản)
2.1. Xây dựng HSDHĐT trong giảng dạy Địa lí 10 THPT
2.1.1. Quá trình thành lập HSDHĐT
Có rất nhiều các quan niệm về quá trình thành lập HSDHĐT. Theo các học
giả nước ngoài thì HSDHĐT là sản phẩm của việc kết hợp phát triển CNTT đa
phương tiện với phát triển hồ sơ dạy học để hình thành và phát triển. Quy trình
phát triển Multimedia để tạo ra HSDHĐT thường phải trải qua các bước sau:
+ Xác định/quyết định: Xác định nhu cầu, mục tiêu, độc giả của sản phẩm
mình làm ra.
+ Thiết kế/lập kế hoạch: Bao gồm xác định nội dung, sự liên kết của các
thành phần trong HSDHĐT.
+ Phát triển: Tập hợp và tổ chức hệ thống tài liệu Multimedia được lưu trữ
trong HSDHĐT.
+ Phương tiện: Hệ thống các phương tiện được sử dụng để biên tập và
thành lập HSDHĐT.
+ Đánh giá: Đánh giá về những tác động của HSDHĐT trong quá trình
giảng dạy.
2.1.1.1. Theo quan niệm của Helen Barett
Từ những cuộc thảo luận về sự phát triển song song giữa quy trình phát
triển Multimedia và phát triển hồ sơ dạy học, Helen Barett đã xác lập quy trình
phát triển HSDHĐT, với hệ thống công cụ, khoa học kĩ thuật và các giai đoạn ở
các mức độ khác nhau. Trong đó có 5 giai đoạn quan trọng trong phát triển
HSDHĐT:
+ Xác định đối tượng và mục tiêu của hồ sơ;
+ Tiến hành thành lập HSDHĐT;
+ Tập hợp phản ánh;
+ Liên kết HSDHĐT;
+ Trình chiếu HSDHĐT.
2.1.1.2. Theo quan niệm của PGS.TS Nguyễn Đức
Theo quan điểm của Nguyễn Đức Tuấn thì quy trình thành lập HSDHĐT
gồm 5 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Định hướng
Ở giai đoạn này, cần xác định được đối tượng (điều kiện cơ sở vật chất,
trình độ chuyên môn, kĩ năng công nghệ); Tiếp sau đó là khảo sát nhu cầu của
đối tượng, xác định nội dung, thành phần, chức năng; Xác định nguồn tài
nguyên; Xác định phần mềm sử dụng, hình thức lưu giữ và phương tiện trình
chiếu; Cuối cùng là đặt mục tiêu đầu ra của HSDHĐT.
+ Giai đoạn 2: Thu thập

16

Trong giai đoạn này, cần thu thập tài liệu, thông tin có liên quan (thu thập
tất cả các nguồn tài liệu, từ văn bản, hình ảnh, âm thanh, video ở cả 2 dạng là
thô sơ và điện tử); Thu thập các phần mềm sử dụng để thiết kế HSDHĐT.
+ Giai đoạn 3: Lựa chọn, biên tập, tổ chức, thiết kế sản phẩm
Cần nhìn nhận và đánh giá những tài liệu đã tập hợp, lưu giữ, từ đó lựa
chọn tài liệu cần thiết; Xác định nội dung của các thành phần chính trong
HSDHĐT, tổ chức các thành phần nội dung cho hợp lí, logic; Chuyển đổi dữ
liệu trên giấy sang dữ liệu điện tử; Thiết kế sản phẩm; Cuối cùng là lưu giữ
HSDHĐT ở dạng đĩa nén, đĩa mềm, mạng nội bộ, đĩa CD hay đưa lên mạng.
+ Giai đoạn 4: Thực nghiệm, kiểm nghiệm
Đối với giai đoạn này, cần tự đánh giá sản phẩm so với mục tiêu đã đề ra;
Thực nghiệm trên sản phẩm tự tạo, tìm ra những ưu điểm, nhược điểm; Kiểm
nghiệm thông qua đồng nghiệp, bạn bè, cơ quan; Bên cạnh đó cần thăm dò ý
kiến về sản phẩm, từ nội dung, hình thức và tính năng của sản phẩm.
+ Giai đoạn 5: Điều chỉnh, hoàn thiện và xuất bản sản phẩm.
Trên những ý kiến phản hồi, tác giả cập nhật, hoàn thiện sản phẩm; Xuất
bản HSDHĐT dạng đĩa CD hay đưa lên mạng, thiết kế hướng dẫn sử dụng, chia
sẻ với đồng nghiệp, bạn bè
2.1.2. Công cụ xây dựng hồ sơ dạy học điện tử
2.1.2.1. Microsoft Office Word
Microsoft Word, còn được biết đến với tên khác là Winword, là một công
cụ soạn thảo văn bản khá phổ biển hiện nay của công ty phần mềm nổi
tiếng Microsoft. Nó cho phép người dùng làm việc với văn bản thô (text), các
hiệu ứng như phông chữ, màu sắc, cùng với hình ảnh đồ họa (graphics) và nhiều
hiệu ứng đa phương tiện khác (multimedia) như âm thanh, video khiến cho việc
soạn thảo văn bản được thuận tiện hơn. Ngoài ra cũng có các công cụ như kiểm
tra chính tả, ngữ pháp của nhiều ngôn ngữ khác nhau để hỗ trợ người sử dụng.
Các phiên bản của Word thường lưu tên tập tin với đuôi là .doc hay .docx đối
với Word 2007. Hầu hết các phiên bản của Word đều có thể mở được các tập tin
văn bản thô (.txt) và cũng có thể làm việc với các định dạng khác, chẳng hạn
như xử lý siêu văn bản (.html), thiết kế trang web.
2.1.2.2. Microsoft Office Powerpoint
Phần mềm Microsoft PowerPoint là một chương trình ứng dụng trong
bộ phần mềm Microsoft Office. Đây là phần mềm trình diễn (Presentation)
khá phổ biến, được tổ chức theo các slide. Mỗi slide có thể được coi như
một trang văn bản. Trình diễn bằng PowerPoint là một ưu điểm vượt trội so
với các công cụ truyền thống, nó có khả năng diễn tả và minh họa sinh động
nội dung kiến thức giúp người theo dõi trình diễn lĩnh hội tri thức tốt nhất.
PowerPoint cung cấp một số màu slide thông dụng, giúp người dùng lựa
chọn được các cách thức thể hiện phù hợp với nội dung trình bày: Dựa trên
khả năng kết nối của PowerPoint (Hyperlink), GV có thể chủ động
thiết kế các bài giảng của mình theo hướng liên kết, mở rộng nội dung với
nhiều vấn đề khác nhau, làm cho bài giảng trở nên linh hoạt và hấp dẫn
17

hơn. Ngoài việc cho phép thiết kế các nội dung văn bản thông thường,
PowerPoint còn cho phép người thiết kế đưa màu sắc, âm thanh, hình ảnh
động, hình ảnh ba chiều và các đoạn phim, video vào bản trình chiếu.
2.1.2.3. Encatar
Encarta là bộ bách khoa toàn thư số hóa đa phương tiện của hãng phần
mềm lớn nhất thế giới, Microsoft. Encarta được cập nhập và phát hành đều đặn
hằng năm, được viết bởi nhiều chuyên gia nổi tiếng về chuyên nghành của họ,
do vậy mà bài viết trong Encarta rất có chất lượng. Ấn bản Encarta Premium
hiện nay có hơn 68.000 mục từ với rất nhiều hình ảnh và các đoạn video.
Encarta được phát hành trên CD, DVD và Web online.
Encarta sẽ mang đến cho bạn một nguồn thông tin khổng lồ với: hơn
66.000 bài viết bởi các chuyên gia ở hầu hết các lĩnh vực. Các bài viết này có
nội dung rất đáng tin cậy, sâu sắc, đầy đủ và dễ hiểu; hơn 26.000 hình ảnh và
minh họa có giá trị cao; hơn 3.000 âm thanh và bản nhạc; hơn 29.000 liên kết
trang web được biên tập kĩ lưỡng; hơn 200 bài tập tương tác trong Encarta Kids;
300 đoạn phim và mô tả minh họa; 32 đoạn phim của Discovery Channel
vvMột điều rất thú vị là người người dùng có thể đọc thông tin về bộ bách
khoa số hoá này trên bộ bách khoa mở wikipedia.
2.1.2.4. SnagIt
Chức năng PrintScreen của Windows quá hạn chế và đó chính là lí do có
nhiều phần mềm chụp ảnh màn hình (Capture Screen) dành cho hệ điều hành
này. SnagIT, một phần mềm chụp ảnh màn hình chuyên nghiệp của hãng
TechSmith rất phổ biến tại Việt Nam là công cụ không thể thiếu với những
người thường xuyên phải chụp ảnh màn hình.
2.1.2.5. Violet
Violet là phần mềm công cụ giúp cho giáo viên có thể tự xây dựng được
các bài giảng điện tử theo ý tưởng của mình một cách nhanh chóng. So với các
phần mềm khác, Violet chú trọng hơn trong việc tạo ra các bài giảng có âm
thanh, hình ảnh, chuyển động và tương tác rất phù hợp với học sinh cấp phổ
thông các cấp.
Phần mềm Violet ra đời với mục tiêu ban đầu là giúp giáo viên soạn các bài
giảng phục vụ trình chiếu trên lớp, tương tự như phần mềm Powerpoint. Từ năm
2010, theo xu hướng E-learning chung của toàn ngành giáo dục, đặc biệt là
hưởng ứng cuộc thi tạo bài giảng điện tử E-learning do Bộ GD&ĐT phát động,
Violet đã hỗ trợ thêm các tính năng E-learning rất mạnh như cho phép lưu vết
quá trình học và làm bài tập, cho phép đồng bộ video/audio giáo viên giảng bài
và nội dung trình chiếu, cho phép đóng gói bài giảng theo chuẩn SCORM.
2.1.2.6. Excel
Hiện nay có rất nhiều các phần mềm phục vụ cho việc phân tích và xử lí các
số liệu thống kê như: Microsoft Excel, Microsoft Access, SPSS (Statistical
Package for Social Scientists  Xử lí số liệu thống kê chuyên nghiệp dành cho
18

các nhà khoa học xã hội). Tuy nhiên, đơn giản và thông dụng nhất khi phân tích
số liệu địa lí hiện nay là phần mềm Microsoft Excel trong bộ phần mềm Microsoft
Office.
Ưu điểm nổi bật của phần mềm Microsoft Excel là tính phổ biến và dễ thao
tác do các công cụ và cách bố trí các công cụ tương đối quen thuộc với người dùng,
đặc biệt là khả năng chuyển đổi linh hoạt dữ liệu sang các phần mềm khác. Đặc
trưng cơ bản của phần mềm Excel là thực hiện xử lí số liệu thông qua các bảng
tính. Bảng tính Excel có thể được coi như một bảng lớn hình chữ nhật gồm nhiều
ô. Tại một thời điểm ta chỉ có thể quan sát được một phần của bảng này trên màn
hình.
2.1.3. Cách thiết kế các thành tố chức năng trong xây dựng HSDHĐT
2.1.3.1. Cài đặt máy chủ và tạo cơ sở dữ liệu
NukeViet là một hệ quản trị nội dung (Content Management System
CMS) mã nguồn mở (Open source), người sử dụng thường gọi NukeViet là
portal vì nó có khả năng tích hợp nhiều ứng dụng trên nền Web.
NukeViet là niềm tự hào của cộng đồng mã nguồn mở Việt Nam vì chính
quá trình phát triển của nó. Từ việc sử dụng sản phẩm PHP-Nuke để làm cho
website giao lưu cho công đồng, Nguyễn Anh Tú  một lưu học sinh người Việt
tại Nga  đã cùng cộng đồng Việt hóa và cải tiến thành NukeViet 1.0 rồi
NukeViet 2.0. Cho đến phiên bản 3.0 thì NukeViet đã thực sự trở thành một sản
phẩm mã nguồn mở riêng của Việt Nam với 100% dòng code được viết mới.
NukeViet được viết bằng ngôn ngữ PHP và chủ yếu sử dụng cơ sở dữ liệu
MySQL. NukeViet cho phép người sử dụng có thể dễ dàng xuất bản & quản trị
các nội dung của họ trên Internet hoặc Intranet. Đặc biệt NukeViet phiên bản 3.0
sử dụng các công nghệ tiên tiến nhất cho phép người sử dụng có thể thực hiện
việc cài đặt hoàn toàn tự động trên giao diện đồ họa khiến việc tạo web dễ dàng
hơn bao giờ hết. NukeViet đặc biệt thích hợp để phát triển các ứng dụng quản trị
cho doanh nghiệp, các khối trường học và các cơ quan có sự lặp lại và phân cấp
xuyên suốt trừ trên xuống dưới.
NukeViet đang trong quá trình hoàn thiện và được công ty Vinades,.Jsc
cung cấp miễn phí tại trang chủ http://nukeviet.vn.
* Tạo máy chủ ảo bằng Xampp
Xampp là chương trình tạo máy chủ Web (Web Server) được tích hợp sẵn
Apache, PHP, MySQL, FTP Server, Mail Server và các công cụ như
phpMyAdmin. Không như Appserv, Xampp có chương trình quản lý khá tiện
lợi, cho phép chủ động bật tắt hoặc khởi động lại các dịch vụ máy chủ bất kỳ lúc
nào.
- Cài đặt Xampp
Khi đã tải về được bộ cài đặt Xampp, chúng ta vào thư mục chứa tập tin
xampp-win32-1.7.3 rồi nhấn đôi chuột vào nó để tiến hành cài đặt. Cửa sổ cài

19

đặt Xampp hiện ra, nhấn vào Install. Xampp sẽ tự động cài đặt vào ổ C: mặc
định của chương trình.

Hình 2.1: Giao diện trang cài đặt Xampp
Khi Xampp cài đặt kết thúc sẽ hiển thị cho chúng ta một bảng thông báo có
tạo shortcuts trên desktop không, chúng ta chỉ việc Enter để tạo hoặc nhấn n để
không tạo và Enter để kết thúc quá trình cài đặt Xampp.

Hình 2.2: Giao diện trang kết thúc quá trình cài đặt Xampp
* Tạo cở sở dữ liệu
Sau khi cài đặt xong toàn bộ xampp-win32-1.7.3 chúng ta vào
Phpmyadmin để tạo cơ sở dữ liệu cho trang web bằng cách khởi động
Phpmyadmin từ bảng điều khiển của Xampp.

20

Video liên quan