Miền tây nằm ở đâu

Vùng đồng bằng sông Cửu Long (còn được gọi là Vùng đồng bằng Nam Bộ, Vùng Tây Nam Bộ, Cửu Long, Miền Tây Nam Bộ hoặc Miền Tây) là vùng cực nam của Việt Nam, một trong hai phần của Nam Bộ. Khu vực này có 1 thành phố trực thuộc Trung ương là TP. Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Đồng bằng sông Cửu Long có tổng diện tích 39.194,6 km² và có tổng dân số là 17.300.947 người (2021). Vùng chiếm 11,8% diện tích cả nước nhưng có 17,6% dân số cả nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn cả nước (năm 2015 tăng 7,8% trong khi cả nước tăng 6,8%). Chỉ riêng lúa đã chiếm 47% diện tích và 56% sản lượng lúa cả nước; xuất khẩu gạo từ toàn vùng chiếm tới 90% sản lượng. Chưa kể thủy sản chiếm 70% diện tích, 40% sản lượng và 60% xuất khẩu cả nước... Tuy nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long đứng về phương diện thu nhập vẫn còn thấp hơn cả nước: thu nhập bình quân đầu người với mức 54 triệu đồng (cả nước là 64 triệu đồng/người/năm).

Miền tây nằm ở đâu

Đồng bằng sông Cửu Long nhìn từ không gian, tháng 2 năm 1996

Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo nên thuận lợi phát triển ngành nông nghiệp (mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển trồng lúa nước và cây lương thực.

Thủy vănSửa đổi

Tam giác châu sông Mê Kông có lượng nước chảy vào biển trung bình nhiều năm là 475 tỉ mét khối. Trữ lượng lí thuyết thủy năng ở lưu vực sông Mê Kông là 58 triệu kilowatt, thủy năng được khai phát ước tính là 37 triệu kilowatt, lượng phát điện hằng năm là 180 tỉ kilowatt giờ, trong đó 33% ở Campuchia và 51% ở Lào. Thủy năng chưa khai phát không đến 1%.

Dòng chảy ở lưu vực tam giác châu sông Mê Kông đến từ mưa, bởi vì ảnh hưởng gió mùa không thay đổi hằng năm, cho nên đường tiến trình mức nước chủ yếu từ một năm thủy văn trước đến một năm thủy văn sau hầu như không thay đổi, chênh lệch giữa mức nước cao và mức nước thấp không lớn. Nếu quy định lưu lượng mức nước cao hằng năm là trên 110% lưu lượng trung bình nhiều năm, lưu lượng mức nước thấp hằng năm là dưới 90% lưu lượng trung bình nhiều năm, như vậy xác suất xuất hiện năm nước cao, năm nước bằng, năm nước thấp khoảng chừng là 25%, 50%, 25% đo ở trạm Viêng Chăn, Lào, là 20%, 60%, 20% đo ở trạm Kratié, Campuchia.

Đồng cỏ ở Đồng Tháp Mười

Ghe chở chôm chôm trên sông Cửu Long.

Thuyền ghe ở Đồng bằng
châu thổ sông Cửu Long

Về phía tây, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn bởi sông Châu Đốc và kênh Vĩnh Tế một dòng kênh nhân tạo chảy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Hậu Giang qua sông Châu Đốc tại Thành phố Châu Đốc đổ nước ra Vịnh Thái Lan, giới hạn một vùng đất thấp ngập nước theo mùa gọi là Tứ giác Long Xuyên.

Ở khu vực giữa hai dòng sông Hậu và sông Tiền, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn đầu nguồn bởi các dòng kênh nối ngang tại 2 huyện thị đầu nguồn Tân Châu và An Phú của tỉnh An Giang như kênh Vĩnh An...

Về phía đông bắc và đông, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn bằng hàng loạt các dòng sông kênh rạch liên thông với nhau, chảy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia, (giới hạn vùng đất trũng khác ngập nước theo mùa là vùng Đồng Tháp Mười), và đều là phân lưu của sông Mekong: hoặc trực tiếp của dòng chính sông Tiền Giang, hay nhận nước gián tiếp qua một phân lưu chính của Mekong là Preak Banam đổ ra biển Đông qua sông Vàm Cỏ Tây (sông Vàm Cỏ) và các cửa của sông Cửu Long. Giới hạn phía đông bắc và đông của Đồng bắng sông Cửu Long là các dòng sông kênh rạch sau: sông Sở Thượng (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Mekong qua Preak Banam), sông Sở Hạ (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak phân lưu của Preak Banam), rạch Cái Cỏ (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia,[9] là ranh giới phía bắc của Đồng Tháp Mười,[10] nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak một thượng lưu của sông Sở Hạ và rạch Long Khốt), rạch Long Khốt (nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak và Cái Cỏ, thượng nguồn của sông Vàm Cỏ Tây), sông Vàm Cỏ Tây (nhận nước sông Mekong qua rạch Long Khốt và các kênh rạch nối thông với sông Tiền Giang), sông Vàm Cỏ (nhận nước sông Mekong qua sông Vàm Cỏ Tây và các kênh rạch nối thông với sông Tiền Giang), và cuối cùng là sông Soài Rạp (nhận nước sông Mekong qua sông Vàm Cỏ). Các sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ, Soài Rạp mặc dù thuộc hệ thống sông Sài Gòn-Đồng Nai, là hệ thống sông thuộc địa bàn Miền Đông Nam Bộ, nhưng chúng là những dòng sông cuối cùng nhận nước từ sông Mekong về phía đông, đồng thời một trong số chúng (sông Soài Rạp) là ranh giới tự nhiên của 2 tỉnh phía đông Đồng bằng sông Cửu Long là Long An và Tiền Giang với tỉnh thành phía tây của miền Đông Nam Bộ là Thành phố Hồ Chí Minh, nên lưu vực các sông rạch này (chính là địa bàn tỉnh Long An) cũng là địa bàn ranh giới tận cùng phía đông của Đồng bằng sông Cửu Long với Miền Đồng Nam Bộ.

Biến đổi khí hậu và thiên taiSửa đổi

Theo công bố của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam), khoảng 40% vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể bị ngập trong nước biển do biến đổi khí hậu.[11] Bên cạnh đó do ảnh hưởng của hiện tượng Elnino, nhiều vùng ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long gặp tình trạng hạn hán và nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa. Mặt khác trong khi nước biển dâng lên, thì "tình trạng khai thác nước ngầm quá mức là một trong những nguyên nhân gây sụt lún đất ở khu vực TP.HCM và vùng đồng bằng sông Cửu Long".[12][13] Những đề xuất về "bơm bù nước ngầm" để giảm sụt lún thì không được quan tâm thực hiện.[14]

Ngoài ra tác động ở thượng nguồn như nạn phá rừng và một loạt các đập nước đang đưa vào kế hoạch ở Hoa lục, Lào, và Campuchia đã giảm thiểu lượng phù sa bồi đắp ở các cửa sông, khiến vùng ven biển bị ngập dần. So với năm 1990 khi sông Cửu Long đưa 160 triệu tấn phù sa ra biển thì số lượng vào năm 2015 chỉ còn 75 triệu tấn, giảm hơn phân nửa. Lượng phù sa dù ra đến gần biển cũng bị trút bớt vì con người dùng sỏi cát vào các công trình xây cất, gây thiệt hại trầm trọng đến viễn cảnh sống còn của vùng đồng bằng.

Theo nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ, biến đổi khí hậu và hiện tượng ấm lên toàn cầu sẽ làm mực nước biển dâng lên. Nếu dâng 1m thì 20% đồng bằng châu thổ sẽ bị đe dọa. Dâng 2m diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị xóa còn phân nửa, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống 15 triệu dân. Theo nghiên cứu của 19 nhà khoa học đăng trên tạp chí Science thì nếu tiếp tục phát triển với cách thức như hiện tại, vùng này sẽ bị nhấn chìm đến 90% diện tích vào năm 2100[15].

Năm 2016, Đồng bằng sông Cửu Long hứng chịu đợt hạn hán và xâm nhập mặn nặng nề nhất trong vòng 100 năm, gây thiệt hại hơn 160.000 ha lúa, tương đương 800.000 tấn lúa bị mất trắng, với mỗi gia đình có diện tích sản xuất khoảng 0,5 ha thì xâm nhập mặn đã làm khoảng 300.000 hộ gia đình (khoảng 1,5 triệu người) trong những tháng qua không có thu nhập. Các tỉnh bị thiệt hại nặng nhất là Kiên Giang (hơn 54.000 ha), Cà Mau (gần 50.000 ha), Bến Tre (gần 14.000 ha), Bạc Liêu (gần 12.000 ha)... Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã phải công bố tình trạng thiên tai đặc biệt nghiêm trọng.[16] Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, ngoài những nguyên nhân như mùa mưa năm 2015 đến muộn và kết thúc sớm, nguyên nhân chính là các vấn đề ở thượng nguồn dòng chảy. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, các hồ chứa trên dòng chính ở phía Trung Quốc có dung tích khoảng 23 tỉ m³, các hồ chứa trên những sông nhánh khoảng 20 tỉ m³. Tổng dung tích này tác động rất lớn đến việc điều tiết nước và lưu lượng dòng chảy về phía hạ lưu. Trong dịp Tết Nguyên đán ở Trung Quốc, nhu cầu năng lượng giảm nên họ tích nước, do vậy vào thời điểm này lượng nước giảm đáng kể, sau đó dòng chảy tăng lên (khi các hồ xả nước để chạy thủy điện). “Tôi khẳng định đây là nguyên nhân cơ bản” - ông Hà nói.[17]

Hành chínhSửa đổi

  • Mục diện tích và dân số ghi theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam.

Bản đồ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam Bộ)

Stt Tỉnh thành Thủ phủ[a] Thành phố Thị xã Quận Huyện Diện tích
(km²)
Dân số
(người)
Mật độ
(km²)
Biển số xe Mã vùng ĐT
1 Cần Thơ Q. Ninh Kiều 5 4 1.439,2 1.244.736 865 65 292
2 An Giang TP. Long Xuyên 2 1 8 3.536,7 1.864.651 527 67 296
3 Bạc Liêu TP. Bạc Liêu 1 1 5 2.669 917.734 344 94 291
4 Bến Tre TP. Bến Tre 1 8 2.394,6 1.295.067 541 71 275
5 Long An TP. Tân An 1 1 13 4.490,2 1.744.138 388 62 272
6 Cà Mau TP. Cà Mau 1 8 5.294,8 1.191.999 225 69 290
7 Sóc Trăng TP. Sóc Trăng 1 2 8 3.311,8 1.181.835 357 83 299
8 Hậu Giang TP. Vị Thanh 2 1 5 1.621,8 728.255 449 95 293
9 Trà Vinh TP. Trà Vinh 1 1 7 2.358,2 1.010.404 428 84 294
10 Đồng Tháp TP. Cao Lãnh 3 9 3.383,8 1.586.438 469 66 277
11 Vĩnh Long TP. Vĩnh Long 1 1 6 1.475 1.022.408 693 64 270
12 Kiên Giang TP. Rạch Giá 3 12 6.348,8 1.730.117 273 68 297
13 Tiền Giang TP. Mỹ Tho 1 2 8 2.510,5 1.783.165 710 63 273

Hiện tại, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên là 39.194,6 km2 (Tỷ lệ 11,8% so với Tổng diện tích cả nước) với dân số là 17.300.947 người (Tỷ lệ 17,6% so với tổng dân số cả nước), bình quân 441 người/km2

Hiện nay, hầu hết các đô thị vốn trước đây là thị xã tỉnh lỵ của một tỉnh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đều đã trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh (ngoại trừ thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương từ đầu năm 2004). Trong đó, tỉnh Đồng Tháp có ba thành phố là Cao Lãnh, Hồng Ngự và Sa Đéc, tỉnh Kiên Giang có ba thành phố là Rạch Giá, Hà Tiên và Phú Quốc, tỉnh An Giang có hai thành phố là Long Xuyên và Châu Đốc, tỉnh Hậu Giang có hai thành phố là Vị Thanh và Ngã Bảy. Các tỉnh còn lại đều có một thành phố trực thuộc tỉnh.

Trong suốt thời kỳ từ đầu năm 1976 cho đến năm 1999, toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ có hai thành phố (lúc bấy giờ đều là thành phố trực thuộc tỉnh) là Cần Thơ và Mỹ Tho. Từ năm 1999 đến nay, lần lượt các thị xã được nâng cấp trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh.

Các thành phố lập trước năm 1975:

  • Thành phố Mỹ Tho: lập ngày 24 tháng 8 năm 1967 theo Quyết định của Trung ương Cục miền Nam
  • Thành phố Cần Thơ: lập vào tháng 8 năm 1972 theo Quyết định của chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Các thành phố lập từ sau năm 1975 đến nay:

  • Thành phố Long Xuyên: lập ngày 01 tháng 3 năm 1999 theo Nghị định số 09/1999/NĐ-CP[18]
  • Thành phố Cà Mau: lập ngày 14 tháng 4 năm 1999 theo Nghị định số 21/1999/NĐ-CP[19]
  • Thành phố Rạch Giá: lập ngày 26 tháng 7 năm 2005 theo Nghị định số 97/2005/NĐ-CP[20]
  • Thành phố Cao Lãnh: lập ngày 16 tháng 1 năm 2007 theo Nghị định số 10/2007/NĐ-CP[21]
  • Thành phố Sóc Trăng: lập ngày 08 tháng 2 năm 2007 theo Nghị định số 22/2007/NĐ-CP[22]
  • Thành phố Vĩnh Long: lập ngày 10 tháng 4 năm 2009 theo Nghị định số 16/NĐ-CP
  • Thành phố Bến Tre: lập ngày 11 tháng 8 năm 2009 theo Nghị định số 34/NQ-CP[23]
  • Thành phố Tân An: lập ngày 24 tháng 8 năm 2009 theo Nghị định số 38/NQ-CP[24]
  • Thành phố Trà Vinh: lập ngày 04 tháng 3 năm 2010 theo Nghị định số 11/NQ-CP[25]
  • Thành phố Bạc Liêu: lập ngày 27 tháng 8 năm 2010 theo Nghị định số 32/NQ-CP[26]
  • Thành phố Vị Thanh: lập ngày 23 tháng 9 năm 2010 theo Nghị định số 34/NQ-CP[27]
  • Thành phố Châu Đốc: lập ngày 19 tháng 7 năm 2013 theo Nghị định số 86/NQ-CP[28]
  • Thành phố Sa Đéc: lập ngày 14 tháng 10 năm 2013 theo Nghị định số 113/NQ-CP[29]
  • Thành phố Hà Tiên: lập ngày 11 tháng 9 năm 2018 theo Nghị quyết số 573/NQ-UBTVQH14[30]
  • Thành phố Ngã Bảy: lập ngày 10 tháng 1 năm 2020 theo nghị quyết số 869/NQ-UBTVQH14[31]
  • Thành phố Hồng Ngự: lập ngày 18 tháng 9 năm 2020 theo Nghị quyết số 1003/NQ-UBTVQH14.[32]
  • Thành phố Phú Quốc: lập ngày 09 tháng 12 năm 2020 theo Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14.[33]

Xếp loại đô thịSửa đổi

Tính đến ngày 20 tháng 4 năm 2022, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có:

  • 1 thành phố đô thị loại I trực thuộc trung ương: Cần Thơ.
  • 2 thành phố đô thị loại I trực thuộc tỉnh:
    • Mỹ Tho (Tiền Giang)
    • Long Xuyên (An Giang)
  • 13 đô thị loại II, gồm 12 thành phố trực thuộc tỉnh:
    • Tân An (Long An)
    • Bến Tre (Bến Tre)
    • Trà Vinh (Trà Vinh)
    • Vĩnh Long (Vĩnh Long)
    • Sa Đéc (Đồng Tháp)
    • Cao Lãnh (Đồng Tháp)
    • Châu Đốc (An Giang)
    • Phú Quốc (Kiên Giang)
    • Rạch Giá (Kiên Giang)
    • Vị Thanh (Hậu Giang)
    • Sóc Trăng (Sóc Trăng)
    • Bạc Liêu (Bạc Liêu)
    • Cà Mau (Cà Mau)
  • 8 đô thị loại III, gồm 3 thành phố trực thuộc tỉnh: Hà Tiên, Ngã Bảy, Hồng Ngự và 5 thị xã: Gò Công, Long Mỹ, Tân Châu, Cai Lậy, Bình Minh.
  • 24 đô thị loại IV, gồm 5 thị xã: Vĩnh Châu, Kiến Tường, Ngã Năm, Giá Rai, Duyên Hải; 1 huyện: Tịnh Biên và 19 thị trấn: Mỹ An, Lấp Vò, Mỹ Thọ, Núi Sập, Phú Mỹ, Chợ Mới, Ba Tri, Bình Đại, Năm Căn, Sông Đốc, Kiên Lương, Bến Lức, Hậu Nghĩa, Đức Hòa, Cần Đước, Cần Giuộc, Tiểu Cần, Mỏ Cày.

  1. ^ Thủ phủ hay tỉnh lỵ là thành phố trung tâm hành chính của tỉnh hoặc quận trung tâm hành chính của thành phố trực thuộc trung ương.

Dân cưSửa đổi

Dân cư ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đa số là người Kinh. Khu vực này trước đây từng là một phần của Đế quốc Khmer, do đó là vùng tập trung người Khmer nhiều nhất bên ngoài nước Campuchia.

Người Khmer sống chủ yếu ở Trà Vinh, Sóc Trăng và người Chăm theo đạo Hồi sống ở Tân Châu, An Giang. Người Hoa sống ở Sóc Trăng 64.910 người, tỉnh Kiên Giang 29.850 người, tỉnh Bạc Liêu 20.082 người (2009). Dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 17,33 triệu người vào năm 2011.

Dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng chậm trong những năm gần đây, chủ yếu do di cư đi nơi khác. Dân số vùng tăng 471.600 người từ năm 2005 đến 2011, trong khi đó 166.400 người di cư chỉ trong năm 2011. Tương tự như vùng duyên hải miền Trung, đây là một trong những nơi tăng dân số chậm nhất nước. Tỷ lệ tăng dân số trong khoảng 0,3% đến 0,5% từ năm 2008 đến 2011, trong khi đó tỷ lệ tăng dân số vùng Đông Nam Bộ lân cận là 2%. Tỷ lệ tăng dân số cơ học trong vùng là âm trong những năm này. Tỷ lệ sinh của vùng cũng khá thấp, ở mức 1,8 trẻ em trên mỗi người phụ nữ vào năm 2010 và 2011, giảm từ 2,0 năm 2005.

Kinh tếSửa đổi

Tài nguyênSửa đổi

Đồng bằng sông Cửu Long không giàu khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu là than bùn và đá vôi. Ngoài ra đồng bằng còn có các khoáng sản vật liệu xây dựng như sét gạch ngói, cát sỏi...

Tài nguyên rừng cũng giữ những vai trò quan trọng, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ven biển lớn nhất Việt Nam, trong đó hệ thống rừng ngập mặn Mũi Cà Mau được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, bên cạnh đó là những cánh rừng tràm ở U Minh (Cà Mau), Đồng Tháp với một hệ thống sinh học vô cùng đa dạng.

Nông nghiệpSửa đổi

Phong cảnh làng quê tại vùng đồng bằng sông Cửu Long với mái nhà rơm làm chuồng bò.

Cau được trồng bên đường ở phường Thường Thạnh, thuộc quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ

Một cánh đồng ở xã Phú Thuận (Thoại Sơn, An Giang, Việt Nam) vào mùa nước nổi.

Triển khai nghị quyết 120, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phân định đồng bằng sông Cửu Long thành ba vùng sản xuất:

Vùng thượng: Trồng lúa, rau màu, nuôi trồng thủy sản nước ngọt.

Vùng giữa: Trồng cây ăn quả.

Vùng ven biển: Thâm canh, luân canh tôm – lúa, nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ.

Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản chưa tới 30% của cả nước nhưng miền Tây đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện tích nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng thủy sản của cả nước.[34] Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 2,3 lần so với lương thực trung bình cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng sông Cửu Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước. Ngoài ra cây ăn quả còn là đặc sản nổi tiếng của vùng, với sự đa dạng về số lượng, cũng như chất lượng ngày càng được nâng cao

Nghề nuôi vịt đàn phát triển mạnh, nuôi nhiều ở Đồng Tháp, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và Sóc Trăng.

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 854/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2021-2025[35].

Thủy sảnSửa đổi

Sản lượng thủy sản chiếm 50% cả nước, nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang và An Giang. Kiên Giang là tỉnh có sản lượng thủy sản săn bắt nhiều nhất, 239.219 tấn thủy sản (năm 2000). An Giang là tỉnh nuôi trồng thủy sản lớn nhất vùng với sản lượng 80.000 tấn thủy sản (năm 2000). Nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản đang phát triển mạnh, theo quy mô công nghiệp.

Công nghiệpSửa đổi

Ngành công nghiệp phát triển rất thấp, chủ yếu là ngành chế biến lượng thực. Cần Thơ là trung tâm công nghiệp của cả vùng bao gồm các ngành nhiệt điện, chế biến lương thực, luyện kim đen, cơ khí, hóa chất, dệt may và vật liệu xây dựng.

Dịch vụSửa đổi

Chèo thuyền trên sông.

Khu vực dịch vụ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các ngành chủ yếu: xuất nhập khẩu, vận tải thủy và du lịch. Xuất khẩu gạo chiếm 80% của cả nước. Giao thông đường thủy giữ vai trò quan trọng nhất.

Du lịch biển chủ yếu ở Kiên Giang với thắng cảnh đẹp ở Hà Tiên, Phú Quốc.

Du lịch tâm linh với nhiều chùa đẹp ở An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh.

Du lịch sinh thái bắt đầu khởi sắc như du lịch trên sông nước, vườn, khám phá các cù lao. Du lịch bền vững bước đầu hình thành với sự thành công của khu nghỉ dưỡng bền vững Mekong Lodge tại Tiền Giang và nhiều địa phương khác như Bến Tre, Vĩnh Long, Cà Mau, Đồng Tháp. Tuy nhiên chất lượng và sức cạnh tranh của các khu du lịch không đồng đều và còn nhiều hạn chế.

Giao thôngSửa đổi

Mạng lưới đường bộ từng bước được quy hoạch, nâng cấp, xây mới theo dạng "ô bàn cờ", bao gồm các trục dọc, ngang và hệ thống đường vành đai liên kết với nhau một cách hợp lý. Nhiều trục quốc lộ đã và đang được nâng cấp, xây mới, trong đó đáng kể có dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Trung Lương – Cần Thơ; xây dựng đường cao tốc TP Hồ Chí Minh – Trung Lương; tuyến đường nam sông Hậu, tuyến Quản Lộ – Phụng Hiệp... Nhiều cầu lớn vượt sông trên Quốc lộ 1 đã được đầu tư, xây mới như cầu Mỹ Thuận vượt sông Tiền, cầu Cần Thơ vượt sông Hậu, cầu Rạch Miễu nối Tiền Giang với tỉnh Bến Tre... Những cây cầu này xóa đi cảnh chen chúc lộn xộn, mất thờigian, thiếu an toàn tại các bến phà vốn tồn tại hàng thế kỷ nay, đồng thời trở thành điểm tham quan thu hút khách du lịch bởi quy mô và kiến trúc đẹp, hiện đại. Đến nay những "anh hai lúa" có thể thỏa mãn ước mơ được đi trên những máy bay hiện đại, ngắm nhìn những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Đó cũng là nhờ việc quan tâm đầu tư, quy hoạchcác sân bay trong vùng trên nguyên tắc bảo đảm kết nối vùng với các sân bay quốc tế và phân bố đều trong khu vực, nhất là các tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với việc nâng cấp một số hạng mục các cảng hàng không Rạch Giá, Cà Mau, Phú Quốc... sân bay quốc tế Cần Thơ đã hoàn thành với sức chứa 2,5 triệu hành khách/năm và có thể khai thác được các loại máy bay lớn như B747, B777. Hiện Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc mới giai đoạn I đang được thi công, sau khi hoàn thành sẽ thuận lợi hơn cho người dân trên đảo gần với đất liền và thu hút nhiều khách trong và ngoài nước đến với đảo xa. Cùng với đường bộ và đường hàng không, hệ thống đường sông Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang được đầu tư nâng cấp một cách đáng kể, nhất là các tuyến sông chính, kết hợp với hệ thống đường thủy do các địa phương quản lý đã góp phần nâng cao khả năng kết nối khu vực với các cảng sông, biển. Từ Thành phố Hồ Chí Minh, bằng phương tiện thủy, hàng hóa và hành khách có thể đi qua Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên đến Hà Tiên, Cà Mau... Nông sản hàng hóa vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ đến nhanh hơn với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.

Cầu Cần Thơ là cầu dây văng bắc ngang qua sông Hậu, được hoàn thành vào ngày 12 tháng 4 năm 2010. Trước đó 3 năm, một tai nạn lúc xây dựng làm 55 người chết và làm bị thương hơn 100 người. Cầu được xây dựng để thay thế cho phà và kết nối Quốc lộ 1. Cầu Cần Thơ bắt ngang qua tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ. Chi phí xây dựng ước tính là 4.842 tỷ đồng (khoảng 342,6 triệu đô la Mỹ), và là cây cầu đắt nhất Việt Nam lúc mới hoàn thành.[36][37]

Ngoài ra, còn có các cầu lớn như cầu Hàm Luông, cầu Cổ Chiên, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống...

Văn hóaSửa đổi

Âm nhạcSửa đổi

Vùng này là cái nôi của nghệ thuật đờn ca tài tử, nghệ thuật sân khấu cải lương với các nghệ sĩ nổi tiếng như: Phùng Há, Út Trà Ôn, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Thanh Sang, Minh Phụng...

Nhiều ca khúc âm hưởng dân ca Nam Bộ với nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như: Bắc Sơn, Thanh Sơn, Trúc Phương... Một số bài hát nổi tiếng như Anh về miền Tây (Minh Vy), Bỏ quê (Sơn Hạ), Bông bí vàng (Bắc Sơn), Dáng đứng Bến Tre (Nguyễn Văn Tý), Bông điên điển (Hà Phương), Chiếc áo bà ba (Trần Thiện Thanh), Về miền Tây (Tô Thanh Tùng), Miền Tây quê tôi (Cao Minh Thu), Tình em Tháp Mười (Thanh Sơn), Tình quê miền Tây (Cao Minh Thu), Sóc sờ bai Sóc Trăng ( Thanh Sơn), Phải lòng con gái Bến Tre (thơ: Luân Hoán - nhạc: Phan Ni Tấn), Đàn sáo Hậu Giang (Trần Long Ẩn), Trà Vinh trong những tình mật ngọt (Trúc Phương), Bạc Liêu hoài cổ (Thanh Sơn), Áo mới Cà Mau (Thanh Sơn), Về An Quảng Hữu (Trúc Phương),...

Văn học và phim ảnhSửa đổi

Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm nổi tiếng về con người hào khí, nghĩa hiệp; từ đó trở thành nghệ thuật đọc thơ Lục Vân Tiên.

Nhiều bộ phim được sản xuất ở vùng này để miêu tả nền văn minh của Đồng bằng sông Cửu Long. Một số phim nổi tiếng có thể kể ra như Mùa len trâu, Cánh đồng bất tận, Hương phù sa, Đất phương Nam...

Sơn Nam, Vương Hồng Sển, Lê Vĩnh Hòa, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Ngọc Tư, Trang Thế Hy,... đã viết nhiều quyển sách nổi tiếng về cuộc sống ở vùng Đồng bằng.

Xem thêmSửa đổi

  • Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ a b c Ngộ, 1988
  2. ^ Blackwelder và nhiều tác giả, 1979.
  3. ^ a b Morisawa M., 1985
  4. ^ a b Pons L. J. và tác giả khác, 1982
  5. ^ Pons L. J. và tác giả khác, 1989
  6. ^ Morgan F. R., 1961
  7. ^ Moormann, 1961
  8. ^ Moormann và Pons, 1974
  9. ^ Mạnh Chiến (ngày 28 tháng 12 năm 2009). “Hiện trạng Công trình thủy lợi Biên giới Việt Nam - Cam Pu Chia”. pctt.longan.gov.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  10. ^ Ks. Trần Đức Đông. “Nghiên cứu đánh giá tác động của việc khai thác, phát triển vùng ngập đến dòng chảy lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long”. siwrp.org.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  11. ^ Hương Thu (ngày 9 tháng 3 năm 2012). “Mất 40% đồng bằng Cửu long nếu nước biển dâng một mét”. vnexpress.net. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  12. ^ Minh Thuận (ngày 27 tháng 9 năm 2018). “Sụt lún ở ĐBSCL: Chọn nước ngầm hay đất?”. tiasang.com.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  13. ^ Xuân Long (ngày 18 tháng 6 năm 2019). “Sụt lún ĐBSCL vì khai thác nước ngầm quá sức chịu đựng”. báo Tuổi Trẻ. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  14. ^ Đình Tuyển (ngày 3 tháng 10 năm 2019). “Đồng bằng sông Cửu Long đang 'chìm'”. báo Thanh Niên. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  15. ^ https://thanhnien.vn/dbscl-co-the-bi-nhan-chim-90-dien-tich-vao-nam-2100-post1456753.html
  16. ^ “Đồng bằng sông Cửu Long khô cằn trong hạn mặn trăm năm”. báo Tuổi Trẻ. ngày 21 tháng 3 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  17. ^ Quốc Thanh (ngày 20 tháng 3 năm 2016). “"Số phận" đồng bằng sông Cửu Long”. báo Tuổi Trẻ. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  18. ^ “Nghị định 09/1999/NĐ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  19. ^ “Nghị định 21/1999/NĐ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  20. ^ “Nghị định 97/2005/NĐ-CP”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  21. ^ “Nghị định 10/2007/NĐ-CP”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  22. ^ “Nghị định 22/2007/NĐ-CP”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  23. ^ “Nghị quyết 34/NQ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  24. ^ “Nghị quyết 38/NQ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  25. ^ “Nghị quyết 11/NQ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  26. ^ “Nghị quyết 32/NQ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  27. ^ “Nghị định 34/NQ-CP”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  28. ^ “Nghị quyết 86/NQ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  29. ^ “Nghị quyết 113/NQ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  30. ^ “Nghị quyết 573/NQ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  31. ^ “Nghị quyết 869/NQ”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  32. ^ “Nghị quyết số 1003/NQ-UBTVQH14”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  33. ^ “Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14”. thuvienphapluat.vn. Truy cập 30 tháng 9 năm 2021.
  34. ^ Thu Hà (ngày 11 tháng 7 năm 2011). “Đồng bằng sông Cửu Long kêu cứu”. tuanvietnam.vietnamnet.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  35. ^ “Quyết định 854/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2021-2025”. doc.vinaseco.vn. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2022.
  36. ^ “SE Asia's longest cable-stayed bridge underway in Can Tho”. vietnamnews.vnanet.vn (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 9 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
  37. ^ Thế Đạt (ngày 13 tháng 12 năm 2012). “Cơ bản hoàn thành cơ sở hạ tầng giao thông ĐBSCL”. vietnamplus.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Quyết định 1581/QĐ-TTg năm 2009 về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
  • Hệ thống canh tác Lưu trữ 2006-02-22 tại Wayback Machine
  • "The Mekong river"

Ghi chúSửa đổi