Khái niệm dân vận là gì

Công tác dân vận là một công tác cơ bản của Đảng, nhân tố quan trọng góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Trước yêu cầu đổi mới, nhiệm vụ chính trị, công tác dân vận cần tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả hoạt động, xứng đáng là cầu nối giữa “ý Đảng” với “lòng dân”, phát huy sức mạnh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Khái niệm dân vận là gì
Ảnh minh họa: internet

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận (CTDV) trong tình hình mới đã khẳng định: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định CTDV là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

“Dân vận” là khái niệm chỉ công tác vận động nhân dân tham gia làm cách mạng, hay còn gọi là công tác vận động quần chúng. Dân vận không chỉ ở con người và tổ chức mà còn là một hoạt động, bao gồm cả tuyên truyền, giảng giải, thuyết phục, hướng dẫn, tổ chức; vừa là phong trào xã hội, từ thi đua yêu nước, vận động đoàn kết, vừa là công tác thực tế hằng ngày.

Mục đích của dân vận là làm cho người dân trưởng thành cả ý thức dân chủ và năng lực làm chủ, người dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền nhà nước, xây dựng các tổ chức, đoàn thể của mình. Qua dân vận mà Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể các cấp ngày càng được xây dựng, củng cố, phát triển vững mạnh.

Dân vận là thước đo của một xã hội phát triển, một nhà nước pháp quyền, một nền dân chủ và một hệ thống chính trị đổi mới. Dân vận góp phần quan trọng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy dân chủ, là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân; giữa nhân dân với Đảng, chính quyền.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho. Do vậy, nên dùng cụm từ “Dân vận” thay cho các khái niệm về vận động quần chúng hay công tác quần chúng vẫn dùng từ trước tới nay. Bởi cách dùng như vậy mới thấy hết công tác dân vận của Đảng phải tiến hành rộng lớn, toàn diện hơn, sâu sắc hơn với tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; với quần chúng ngoài Đảng và đảng viên ở trong Đảng.

Công tác dân vận là trách nhiệm, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, năng lực, trình độ của tổ chức hay cá nhân làm dân vận. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh công tác dân vận là vận động nhân dân làm cách mạng. Toàn Đảng phải làm công tác dân vận, phụ trách công tác dân vận và chịu trách nhiệm cao nhất đối với công tác này, bởi Đảng có trọng trách lãnh đạo và cầm quyền. Người nhấn mạnh, công tác dân vận không phải là nhiệm vụ của riêng một cá nhân cán bộ, đảng viên hay tổ chức nào. Nghĩa là, mọi cấp chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đều phải có trách nhiệm, thường xuyên làm công tác dân vận.

Công tác dân vận là toàn bộ hoạt động của Đảng nhằm vận động, thuyết phục, tập hợp, hướng dẫn mọi tầng lớp nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Thông qua công tác dân vận tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội, mối liên hệ đó được thể hiện bằng đường lối, chính sách của Đảng và việc thực hiện đường lối chính sách đó thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; thông qua các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội và tổ chức Đảng. Mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân là một tất yếu khách quan để giành thắng lợi của cách mạng.

Công tác dân vận không phải chỉ chú ý đến việc an dân mà quan trọng hơn phải có giải pháp để phát huy sức mạnh của nhân dân. Không những phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, xây dựng đoàn kết và sự đồng thuận trong nhân dân mà còn phải chăm lo tìm các giải pháp động viên, bảo đảm quyền làm chủ, phát huy các tiềm năng, sức mạnh trí tuệ sáng tạo, sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, dựa vào dân để thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị. Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Công tác dân vận phải được phân công rõ trách nhiệm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị. Khi bàn tới công tác dân vận phải bàn tới đối tượng dân vận và ai làm công tác dân vận? phân công trách nhiệm thế nào?. Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã chỉ rõ: Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ, lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu, nòng cốt.

Theo chủ nghĩa Mác, cách mạng vô sản muốn thắng lợi phải được sự ủng hộ của các tầng lớp Nhân dân, người lao động và Nhân dân là người “sáng tạo ra lịch sử”. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, để đảm bảo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác xây dựng xã hội mới công bằng, văn minh hơn, cần có hai yếu tố cơ bản: một là, giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra được một chính đảng độc lập; hai là, bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào công cuộc cải tạo ấy, phải tự mình hiểu rõ đó là vai trò và vì sao mình phải tham gia. Nhưng muốn cho quần chúng hiểu rõ phải làm gì, làm như thế nào và tự giác làm thì “cần phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên nhẫn” tức là phải tiến hành công tác dân vận.

Các luận điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu bật vai trò “sáng tạo ra lịch sử” của Nhân dân và mối quan hệ sinh tử giữa Đảng và nhân dân. Mối quan hệ giữa Đảng và Dân mà then chốt cốt lõi là cán bộ - quần chúng đông đảo là quan hệ máu thịt, mật thiết và không thể tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó, Đảng Cộng sản và đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình có vai trò, trách nhiệm dẫn dắt toàn thể nhân dân lao động tiên tiến, coi đây là nguyên tắc đối với việc xây dựng một đảng và chính quyền kiểu mới của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Vì vậy, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản lãnh đạo với Nhân dân là mối quan hệ không tách rời nhau, Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, sống trong quần chúng, biết tâm trạng của quần chúng, hiểu quần chúng, giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng.

V.I. Lê-nin nêu rõ: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. Tư tưởng của V.I. Lê-nin về dân tộc hiểu theo nghĩa rộng là dân tộc quốc gia. Người đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh: Thực hiện triệt để quyền bình đẳng giữa các dân tộc; quyền tự quyết của các dân tộc; đoàn kết giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới để chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, cùng nhau xây dựng thế giới hòa bình, hạnh phúc cho tất cả các dân tộc.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có nhiệm vụ thực hiện ngày càng đầy đủ hơn quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo đảm sự phát triển từng bước tiến tời đồng đều về mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc. Quyền tự quyết cao nhất của Nhân dân các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc là đoàn kết các dân tộc, giữ gìn và bảo vệ nền độc lập thống nhất của Tổ quốc. Đây là quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, phải qua nhiều hình thức, bước đi, biện pháp mang tính chất linh hoạt, quá độ phù hợp với từng vùng dân tộc, bảo đảm sức sáng tạo và khoa học.

Dân vận và công tác dân vận là tư tưởng lớn, nét đặc sắc có ý nghĩa quan trọng trên con đường hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người luôn đề cao công tác dân vận trong hoạt động của Đảng ta. Người đặt vấn đề dân vận, công tác dân vận ở tầm chiến lược, quốc sách, đồng thời chú trọng tới phương pháp, cách thức thực hiện hết sức thiết thực cụ thể, chu đáo, tỉ mỉ. Tư tưởng về công tác dân vận xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng của Người, tư tưởng đó được khẳng định và thể hiện rõ nét qua bài báo “Dân vận” (đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949), bài báo đã trả lời được các câu hỏi: Dân vận là gì? ai làm công tác dân vận?. Có thể thấy, đối tượng công tác dân vận không phải là một cá nhân hay một nhóm xã hội nào mà là toàn thể nhân dân; hoạt động dân vận chính là nhằm thực hiện mục tiêu chung của cách mạng; nội dung cơ bản của công tác dân vận là tổ chức lực lượng nhân dân, đại đoàn kết toàn dân để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, mọi cấp chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, viên chức của hệ thống chính trị đều phải phụ trách công tác dân vận. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình mà có nội dung cụ thể về công tác dân vận. Trong quá trình thực hiện, phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực chủ động, sáng tạo để có biện pháp vận động nhân dân cho phù hợp, thiết thực, hiệu quả.

Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng, là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Cần quán triệt quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận theo tư tuởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới. Công tác dân vận phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân.

Phương thức cơ bản của công tác dân vận là thực hành dân chủ, đây là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Với quy trình bốn điểm về dân vận và công tác dân vận được Hồ Chí Minh đề ra: giải thích cho dân hiểu, bàn với dân, tổ chức để dân thi hành, cùng dân kiểm thảo lại công việc. Trên cơ sở lý luận này và tổng kết thực tiễn thực hiện công tác dân vận trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã tổng kết thành phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra’’.

Dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”, đoàn kết là thành công. Bởi vậy, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc trên cơ sở có sự “đồng tâm”, “đồng sức”, “đồng lòng”, “đồng thuận”, “đồng hưởng” của toàn dân, từ nhiệm vụ và mục tiêu đoàn kết, dân vận hướng toàn dân tộc vào thực hiện mục tiêu lý tưởng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Dân vận và công tác dân vận là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất, đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có công tác dân vận. Dân là chủ và thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.

Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vai trò, vị trí và khẳng định tầm quan trọng của công tác dân vận. Quan điểm của Đảng về công tác dân vận được thể hiện xuyên suốt và thống nhất từ Cương lĩnh chính trị, văn kiện đại hội, các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, quy chế, quy định… cùng sự vận dụng phù hợp theo từng thời kỳ cách mạng.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận là vận động nhân dân làm cách mạng. Toàn Đảng phải làm công tác dân vận, phụ trách công tác dân vận và chịu trách nhiệm cao nhất đối với công tác này, bởi Đảng có trọng trách cầm quyền lãnh đạo đất nước. Công tác dân vận là toàn bộ hoạt động của Đảng nhằm vận động, thuyết phục, tập hợp, hướng dẫn mọi tầng lớp nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Thông qua công tác dân vận góp phần tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội, mối liên hệ đó được thể hiện bằng đường lối chính sách của Đảng và việc thực hiện đường lối chính sách đó thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; thông qua các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội và tổ chức Đảng. Mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân là một tất yếu khách quan, giải pháp để phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay./.

La Hồng Điệp - Ban Dân vận Tỉnh ủy Tuyên Quang

Theo: tapchicongsan.org.vn