Cách xử sự nào sau phù hợp sự phát triển của xã hội theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng

Lịch sử là một quá trình lịch sử - tự nhiên, vì vậy phát triển không bao giờ là sự phát triển theo ý muốn chủ quan kiểu duy ý chí của con người, mà phát triển theo năng lực nhận thức, tôn trọng và hành động theo hệ thống quy luật khách quan của con người.

V.I.Lê-Nin đánh giá cao thành quả phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác, và coi đó chính là "học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng"(1).

C.Mác cho rằng, vấn đề cốt lõi, có ý nghĩa chi phối của sự phát triển, đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời tạo ra khả năng giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất lên một nấc thang mới so với hình thái kinh tế - xã hội cũ, đồng thời xây dựng và ngày càng hoàn thiện các quan hệ sản xuất mới phù hợp. Ðó cũng là quá trình con người được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, phát triển toàn diện. Ðó là quá trình "sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"(2).

Phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật. Ðó là quá trình cái cũ, cái lạc hậu sẽ được thay thế bằng cái mới, cái tiến bộ thông qua con đường phủ định biện chứng, tạo ra khuynh hướng phát triển tất yếu ngày một tiến bộ và hoàn thiện hơn.

Cái cũ, cái lạc hậu này không chỉ nằm ở phương diện vật chất - kinh tế, tức lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũ, để cuối cùng phải xóa bỏ xiềng xích để tạo ra sự phát triển xã hội, mà còn nằm ở phương diện chính trị, tức là giai cấp bóc lột, mà giai cấp vô sản có khả năng và sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội trong cuộc cách mạng chính trị, tạo ra sự phát triển về chất.

Bước nhảy vọt đó chính là khi giai cấp vô sản đã "tự mình trở thành dân tộc", thành một giai cấp thống trị, thiết lập một thể chế chính trị xã hội mới, xây dựng một nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân, là công cụ sắc bén đảm bảo quyền tự do, dân chủ cho người dân, xây dựng đất nước phát triển theo quy luật, chống lại những cản lực trên con đường phát triển.

Trong xã hội loài người (khi không còn sự tha hóa lao động và tha hóa bản chất người) thì con người muốn tồn tại và phát triển phải đủ hai điều kiện, đó là đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Muốn có đời sống vật chất phải lấy kinh tế làm nền tảng. Muốn có đời sống tinh thần, phải lấy văn hóa làm nền tảng. Mặt khác, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội luôn luôn có quan hệ mật thiết với nhau, lấy con người làm mục tiêu và động lực. 

C.Mác cho rằng: "Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v. v. là dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cũng tác động đến cơ sở kinh tế. Hoàn toàn không phải điều kiện kinh tế là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động"(3). Từ mối quan hệ đó, xét đến cùng thì sự phát triển của văn hóa mới là sự phát triển của xã hội. Và sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển. Ðây chính là phương diện văn hóa - xã hội (theo nghĩa rộng) trong triết lý phát triển xã hội của Mác.

Phát triển bao giờ cũng xuất phát từ thực tế. Phát triển  từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều, từ yếu đến mạnh, bao hàm trong đó một số giai đoạn phát triển có cả đường cong, đường dích dắc, vừa liên tục vừa đứt đoạn, vừa có tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Ðó là một quá trình tích lũy và chuyển hóa không ngừng giữa lượng và chất, thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập theo con đường phủ định của phủ định. Nó bao hàm cả những bước tiệm tiến và cả những bước nhảy vọt.

Cần có nhận thức đúng đắn, phân biệt giữa phương tiện, những nấc thang và tiêu chuẩn của sự phát triển. Không thể phủ nhận vai trò của lực lượng sản xuất. Bởi vì, như Các Mác đã nói, đại ý: Nhờ có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình... Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản đại công nghiệp".

Tóm lại, "những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào"(4). Sản xuất bằng cách nào - bằng máy hơi nước, điều mà Mác và  Ăng-ghen nói, hay như sau này V.I. Lê-nin nói đến đại công nghiệp, tức là xét về mặt tình hình lực lượng sản xuất, gắn rất chặt với toàn bộ sự phát triển xã hội. Nhưng đó là cơ sở khách quan, khoa học đánh giá sự phát triển của từng giai đoạn lịch sử.

Cũng như vậy, yếu tố con người, lực lượng sản xuất quan trọng nhất; năng suất lao động đều liên quan đến sự phát triển xã hội, nhưng đó chưa phải là tiêu chuẩn của sự phát triển. Phải chăng, khoa học công nghệ, tăng trưởng GDP, sự giàu có, ngay cả luật pháp là tiêu chuẩn, mục đích của phát triển? Phải coi đó chỉ là những nấc thang tiến đến mục đích của sự phát triển. Còn chất lượng dân sinh, hạnh phúc mới là tiêu chuẩn, mục đích của sự phát triển.

Quan niệm về phát triển xã hội của các quốc gia có một quá trình điều chỉnh và phát triển trong nhận thức. Trong thế kỷ 20, từ thập kỷ 70 trở về trước, phát triển của các quốc gia đặt trọng tâm vào kinh tế. Từ thập kỷ 80, 90, UNESCO đề ra thập kỷ văn hóa để khẳng định phát triển không thể chỉ dựa vào kinh tế, mà văn hóa đóng vai trò chủ đạo, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển.

Giờ đây, loài người quan tâm nhiều tới hạnh phúc. Nghiên cứu kỹ học thuyết mác-xít, chúng ta có thể nhận ra rằng, từ chủ nghĩa Mác đến học thuyết Mác- Lê-nin, các ông có một quan niệm khá toàn diện, hoàn chỉnh và đúng đắn về phát triển xã hội. Chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của các ông lấy sự giải phóng con người thoát khỏi mọi sự nô dịch, tha hóa, nâng cao năng lực, phẩm giá, hạnh phúc và sự phát triển toàn diện  của con người làm mục tiêu cho thấy vẫn rất phù hợp với thời đại ngày nay.

Trong công cuộc đổi mới, Ðảng ta, nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Ðảng và dân tộc ta. Ðảng rất quan tâm tới khoa học công nghệ, tăng trưởng kinh tế, sự giàu có, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, năng suất lao động, v.v.

Nhưng tất cả những điều đó chỉ là phương tiện và nấc thang cho chất lượng dân sinh và hạnh phúc của con người - mục tiêu cao nhất của sự phát triển trong đường lối chính sách của Ðảng.

-----------------------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.23, tr. 53.

(2) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 628.

(3) Mác và Ăng-ghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, t. 6, tr. 788.

(4) C.Mác và Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1993, t. 23, tr. 269.

PGS.TS Bùi Đình Phong

Thế giới tâm lý con người vô cùng diệu kì và phong phú. Nó được mọi người quan tâm và nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại. Từ những tư tưởng đầu tiên sơ khai, tâm lý học đã hình thành và phát triển không ngừng, ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong nhóm các khoa học về con người.Con người là một thực thể sinh vật, xã hội và tâm lý. Vì thế nghiên cứu tâm lý con người cần phải tìm hiểu cơ sở tự nhiên, cơ sở xã hội và bản chất các hiện tượng tâm lý người. Bài viết sau xin đi sâu làm rõ vấn đề: “Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất hiện tượng tâm lý con người”.

1. Một số khái niệm cơ bản:

1.1. Định nghĩa bản chất:

Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.

1.2. Định nghĩa hiện tượng tâm lý:

Trong cuộc sống đời thường, chữ tâm thường được dùng ghép với các từ khác tạo thành các cụm từ “tâm đắc, “tâm tình”, “tâm trạng”…. được hiểu là lòng người, thiên về mặt tình cảm. Theo từ điển Tiếng Việt (1988)tâm lý là ý nghĩ, tình cảm, làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người. Trong tâm lý học: Tâm lý bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hoạt động, hành động của con người.

Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên là hoạt đọng thần kinh và hoạt đọng nội tiết, được nảy sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó mật thiết với các quan hệ xã hội.

2. Bản chất hiện tượng tâm lý con người theo quan điểm của chủ nghĩa  duy vật biện chứng:

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì thì tâm lý con người được hiểu như sau: “Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan của não, mang tính chủ thể và có bản chất xã hội- lịch sử.Trong khẳng định trên cần làm rõ ba khía cạnh sau:

2.1. Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan của não:

Tâm lý chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Muốn có tâm lý con người cần có hai yếu tố tác động đồng thời đó là hiện thực khách quan và hoạt đọng bình thường của não bộ con người. Thiếu một trong hai nhân tố không thể có được tâm lý.Tâm lý con người không phải do thượng đế, do trời sinh ra, cũng không phỉ não tiết ra như gan mật tiết ra mật mà tâm lý con người là sự phản ánh hiện thực khách quan.

Não là cơ sở vật chất, là nơi nảy sinh, tồn tại của tâm lý. Não được hình thành và phát triển là kết quả của một quá trình vận động, biến hóa lâu dài của vật chất. Tâm lý chính là kết quả sự tiến hóa, phát triển lâu dài của bản thân thế giới vật chất. Thế giới vật chất đã trải qua ba thời kì phản ánh: phản ánh vật lý (khi mình đứng trước gương thì mình thấy hình nảh của mình qua gương); phản ánh sinh lý (hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời mọc); phản ánh tâm lý (Trong một lần đi chơi ta quen được một người và có ấn tượng tốt về người đó, một thời gian sau gặp lại ta bắt gặp một hành động không hay của người đó thì thoạt tiên chúng ta sẽ không tin người đó có thể hành đọng như vậy và suy nghĩ nhiều lý do để biện minh cho hành đọng đó. 

Cách xử sự nào sau phù hợp sự phát triển của xã hội theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

Không phải tự nhiên có các hiện tượng tâm lý hay tâm lý do trời ban cho mà nó là kết quả của sự phát triển của vật chất từ vô cơ đến hữu cơ, từ chỗ không có sự sống đến chỗ có sự sống, từ chỗ sự sống chưa có tâm lý đến chỗ có mầm mống của tâm lý. Sự sống có tâm lý từ khi vật chất phát triển đến lúc có các tế bào thần kinh hợp lại thành hệ thống tương đối chặt chẽ. Tâm lý lúc đầu có ở động vật. Khi có con người thì xuất hiện tâm lý con người. Tâm lý con người khác về chất so với tâm lý động vật vì con người có ý thức, có ngôn ngũ và có khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa….

Xem thêm: Chuyên chính vô sản là gì? Nhà nước chuyên chính vô sản theo Mác – Lênin

Tâm lý là kết quả của sự phát triển lâu dài của vật chất.Không có não hoạt động thì không có tâm lý. Nhưng có não không thôi thì chưa đủ mà phải có hiện thực khách quan tác động vào não.Hiện thực khách quan đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển tâm lý. Chủ nghĩa duy vật khẳng định rằng thực tại khách quan là tất cả những gi tồn tại ngoài ý thức của chúng ta. Thực tại khách quan tác động vào giác quan của ta và não ta tạo ra tâm lý và ý thức.

Chẳng hạn nhìn một bức tranh xong, nhắm mắt lại có thể hình dung được màu sắc, cảnh vật vẽ tong bức tranh. Nghe xong một bài hát trong đầu ta còn văng vẳng lời ca, nhạc điệu của bài hát ấy. Cầm một hòn bi (không nhìn hòn bi ấy) xong rồi cất bi đi có thể mô tả được hình dáng, trọng lượng hòn bi. Tâm lý của mỗi người phản ánh thực tại khách quan thông qua vốn kinh nghiệm của riêng người đó. Hai người cùng xem một sự vật, họ đều giữ lại hình ảnh sự vật trong não. Hai hình ảnh của cùng một sự vật ở trong hai bộ não có những nét khác nhau.Hay như ta thường nó là mỗi người phản ánh thực tại khách quan thông qua  lăng kính chủ quan của mình: “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. ( Nguyễn Du)

Phản ánh tâm lý là hình thức phản ánh đặc biệt và chỉ những sinh vật có hệ thần kinh mới, có não mới có phản ánh tâm lý. Não người là tổ chức cao nhất của vật chất có cấu tạo tinh vi và hoàn thiện nhất. Trong quá trình sống và hoạt động của con người, các sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh tác động vào con người được hệ thần kinh, được não tiếp nhận và nhờ hoạt động phân tích, tổng hợp của não mà xuất hiện những hình ảnh tâm lý về thế giới khách quan.

Như vậy, tâm lý là hình ảnh về thực tại khách quan trong não bộ. Không có não hoạt đọng thì không có tâm lý. Mặt khác, không có hiện tượng khách quan tác động vào não thì thì cũng không có hiện tượng tâm lý.

2.2. Tâm lý mang tính chủ thể:

Ví dụ: Hai điều tra viên cùng tham gia khám nghiệm hiện trường nhưng do trình độ nhận thức, chuyên môn… khác nhau nên kết quả điều tra khác nhau. Hoặc ví dụ: Con gái yêu bằng tai, con trai yêu bằng mắt.

Nguyên nhân là do:

+ Mỗi người có đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ.

+ Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau.

Xem thêm: Quan điểm toàn diện là gì? Cơ sở lý luận, nội dung và yêu cầu?

+ Đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống dẫn đến tâm lý của người này khác với tâm lý của người kia.

Tuy nhiên không phải cứ hiện thực khách quan trực tiếp tác động đến não là có hình ảnh tâm lý. Muốn có hình ảnh tâm lý thì điều kiện đủ là phải thông qua con đường hoạt động và giao tiếp.

Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan. Sự phản ánh này không đơn giản, thụ động, khô cứng như phản ánh của chiếc máy chụp ảnh hay chiếc gương. Hình ảnh tâm lý về hiện thực khách quan được cải biến trong thế giới nội tâm, được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của  người[phản ánh (chủ thể). Nói cách khác, tâm lý là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan; hình ảnh tâm lý không những phụ thuộc vào bản thân hiện thực khách quan mà còn phụ thuộc vào đặc điểm của người phản ánh. Đó chính là tính chủ thể của phản ánh tâm lý.

Tính chủ thể của tâm lý thể hiện ở như sau:

Cùng một sự vật hiện tượng tác động vào những người khác nhau sẽ cho những hình ảnh tâm lý khác nhau về mức độ, sắc thái. Ví dụ như hai bạn cùng ngồi nghe giảng nhưng có bạn khen giáo viên dạy rất hay nhưng có bạn nghe không thích lại nói giáo viên dạy rất nhàm chán.

Cùng một sự vật hiện tượng tác động vào cùng một con người nhưng vào những thời điểm khác nhau, trong những thời điểm khác nhau có thể cho những hình ảnh tâm lý khác nhau.Chẳng hạn vào mùa hè, bạn đi học về gặp trời mưa. Bình thường bạn thấy rất sung sướng vì được tắm mưa. Nhưng hôm nay, bạn bị ốm và bạn cảm thấy rất khó chịu vì cơn mưa đó.

Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện nó rõ nhất và thông qua các mức độ, sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ và hành vi khác nhau đối với hiện thực. Ví dụ như bạn đi học về, con chó nhà bạn chạy ra quấn quýt lấy bạn. Bình thường, bạn cảm thấy dễ chịu về sự quấn quýt đó và sẽ ngồi vuốt ve nó. Nhưng hôm nay bị điểm kém, bạn thấy chán và bạn cảm thấy bực mình về sự quấn quýt đó.Bạn đã đá con chó đó một phát thật đau.

Do tâm lý mang tính chủ thể nên mỗi người luôn có những nét riêng giúp ta phân biệt người này với người kia. Trong đời sống và hoạt động giao tiếp chúng ta cần biết tôn trọng cái riêng của người khác, không thể đòi hỏi họ suy nghĩ, mong muốn hành đọng như mình. Mặt khác cách ứng xử tiếp cận cũng cần được phân hóa cho phù hợp với đối tượng.Trong hoạt động điều tra, khi tiến hành hỏi cung bị can, điều tra viên cần nghiên cứu kĩ tâm lý bị can từ đó mà  đưa ra phương pháp, chiến thuật xét hỏi hợp lý, không thể máy móc áp dụng một phương pháp, một chiến thuật nào đó cho tất cả các bị can.

Xem thêm: Phủ định biện chứng là gì? Các đặc điểm cơ bản của phủ định biện chứng?

2.3. Tâm lý con người mang bản chất xã hội lịch sử:

Tâm lý con người khác xa với tâm lý của một số loài động vật bậc cao ở chỗ, tâm lý con người có bản chất xã hội và tính lịch sử.

Tâm lý con người mang bản chất xã hội.

Tâm lý có nguồn gốc xã hội và mang nội dung xã hội. Nguồn gốc của tâm lý là thế giới khách quan, nội dung của tâm lý chính là tổng hòa các mối quan hệ xã hội….Theo C.Mác bản chất con người “là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, chính các mối quan hệ xã hội đã quyết định bản chất tâm lý con người. Con người bao giờ cũng phải sống trong xã hội nhất định, không có con người nào tồn tại ngoài xã hội và tách khỏi kiện sống của xã hội. Sự tồn tại và phát triển của tâm lý luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng xã hội.

Ví dụ: “Rochom P’ngieng mất tích năm 1989 khi đi chăn trâu. Sau 18 năm, Rochom được tìm thấy khi trên người không mặc quần áo và di chuyển như một con khỉ nói chuyện hay giao tiếp mà chỉ phát ra những tiếng gừ gừ, những âm thanh vô nghĩa, không thể hòa nhập vào cuộc sống con người. Từ đó có thể thấy tâm lý người chỉ hình thành khi có điều kiện cần và đủ là sự tác động của hiện thực khách quan lên não người bình thường và phải có hoạt động và giao tiếp.

Tâm lý con người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, những người không được sống trong xã hội loài người sẽ không có tâm lý người(những trường hợp trẻ bị sói, trâu rừng nuôi đã phát hiện ra trên thế giới). tâm lý con người chịu sự quy định của các quan hệ xã hội mà họ tham gia. Mỗi cá nhân tham gia vào rất nhiều các mối quan hệ xã hội khác nhau, có các hoạt động và giao tiếp khác nhau. Các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia luôn để lại những dấu ấn nhất định trong tâm lý của họ.

Trong quá trình phát triển xã hội lịch sử, loài người đã tích lũy được vô vàn kinh nghiệm và tri thức về mọi mặt của cuộc sống và truyền đạt lại cho từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cá nhân nắm kinh nghiệm và tri thức chung của loài người biến nó thành kinh nghiệm của mình tức là tạo nên tâm lý cá nhân. Chẳng hạn, các hoạt động nghề nghiệp khác nhau luôn tạo ra những phong cách khác nhau trong hành vi của mỗi người. Nếu bạn làm kinh doanh, hẳn bạn sẽ chịu ảnh hưởng của hoạt động này mà có phong cách năng động, thực tế. Còn nếu bạn là nghệ sĩ, bạn sẽ có phong cách lãng mạn, bay bổng. Như vậy, phụ thuộc vào các quan hệ xã hội khác nhau mà tâm lý của mỗi cá nhân có nội dung khác nhau.

Tâm lý con người mang tính lịch sử, nghĩa là nó luôn vận động, biến đổi.Ví dụ: Trước đây thì xã hội rất định kiến về việc có thai trước khi cưới nhưng bây giờ xã hội biến đổi, sống phóng túng hơn nên con người xem vấn đề đó là bình thường. . Như ngay nay người ta “ đổ xô” đi thi hoa hậu. Có quá nhiều cuộc thi hoa hậu được tổ chức thì tất nhiên sẽ phải cần nhiều người đi thi, theo xu thế ngày nay là muốn tôn vinh cái đẹp. Nên thi hoa hậu đã trở thành một công nghệ lôi cuốn mọi ngươi và nuôi sống cả xã hội mà thí sinh dự thi không chỉ có nữ mà con còn có cả nam( lĩnh vực trước nay chỉ có nữ) cho thấy tâm lý của họ bị ảnh hưởng nhiều của tâm lý cộng đồng.

Thế giới xung quanh vận động, phát triển không ngừng. Tâm lý con người là sự phản ánh thế giới xung quanh, cũng không ngừng vận động và phát triển. Khi chuyển qua một thời kì lịch sử khác, những biến đổi trong xã hội sớm muộn sẽ dẫn đến những thay đổi trong nhận thức, tình cảm, ý chí, nếp nghĩ, lối sống, …của con người. Ví dụ ở nước ta trước  đây trong thời kì bao cấp, những người giàu có nhiều tiền, kể cả bằng con đường lao động chân chính, thường ngại những người xung quanh biết là họ giàu, nhiều tiền của. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, tâm lý đó cũng thay đổi: sự giàu có trở thành niêm tự hào, niềm kiêu  hãnh và ngươi ta còn tìm cách chứng minh sự giàu có của mình bằng cách xây dựng nhà cao, to, lộng lẫy mua sắm nhiều đò dùng tiện nghi đắt tiền.

Như vậy, tâm lý con người có nguồn gốc xã hội vì thế muốn hiểu tâm lý con người và cải tạo giáo dục con người thì phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hóa xã hội, các quan hệ xã hội mà người đó sống và hoạt động-.Cần chú ý nghiên cứu sát đối tượng, chú ý đặc điểm riêng của từng cá nhân.Phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lý con người.Chú ý giáo dục thể chất, phát triển não bộ và các giác quan.Nhìn nhận học sinh theo quan điểm phát triển, tôn trọng đặc điểm lứa tuổi. Tôn trọng ý kiến, quan điểm của từng chủ thể.Khi nghiên cứu cần xem xét sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng trong từng giai đoạn lịch sử.

Tóm lại, tâm lý người có nguồn gốc xã hội, vì thế phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hóa xa hội, các quan hệ xã hội trong đó con người sống và hoạt động. Cần phải tổ chức có hiệu quả các hoạt động dạy học và giáo dục, cũng như các hoạt động chủ đạo ở tửng giai đoạn lứa tuổi khác nhau để hình thành, phát triển tâm lý con người.