Tiền giấy có phải là hàng hóa không vì sao
Show
Chào bạn đọc. Today, mình mạn phép đưa ra đánh giá chủ quan về Vì Sao Tiền Là Hàng Hóa Đặc Biệt, Tại Sao Nói Tiền Giấy Là Một Hàng Hóa Đặc Biệt với bài chia sẽ Vì Sao Tiền Là Hàng Hóa Đặc Biệt, Tại Sao Nói Tiền Giấy Là Một Hàng Hóa Đặc Biệt Phần nhiều nguồn đều đc cập nhật ý tưởng từ các nguồn trang web lớn khác nên sẽ có vài phần khó hiểu. Mong mọi cá nhân thông cảm, xin nhận góp ý và gạch đá dưới phản hồi Quý độc giả vui lòng đọc bài viết này trong phòng riêng tư để đạt hiệu quả tối ưu nhất Tránh xa toàn bộ các thiết bị gây xao nhoãng trong các công việc tập kết Bookmark lại nội dung bài viết vì mình sẽ cập nhật thường xuyên Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt vì tất cả các loại hàng hóa khác đều dựa trên nó như một đơn vị đo lường cụ thể trên thị trường. Để hiểu hơn về vấn đề này ttmn.mobi sẽ phân tích và chứng minh cho bạn. Bạn đang xem: Tại sao tiền là hàng hóa đặc biệt Tiền là gì?Con người không thể sống mà không có tiền. Tiền là một vật tương đương thông thường hay nói cách khác nó là phương tiện để trao đổi giữa nhu cầu và vật dụng. Ví dụ tờ 500 nghìn đồng trong ví của bạn là tiền. Nó có thể mua một chiếc váy hoặc trả một tô mì trong tiệm. Hầu hết mọi thứ đều có thể được chuyển đổi thành tiền. Và thông thường người ta dùng tiền mặt để trao đổi. Đối với cổ phiếu cũng vậy, nếu bạn trả cho bà chủ trên vỉa hè 5% cổ phiếu cho một cốc nước. Mặc dù giá trị của 5% cổ phần đó gấp hàng trăm, thậm chí hàng chục nghìn lần giá trị thực của một cốc nước. Nhưng đối với chủ nhà hàng này, anh ta sẽ không hiểu và dễ nổi nóng. Tiền bạc là của cải phổ biến trong các gia đình. Khi nói đến mức độ giàu có của bạn, nó sẽ được tính toán dựa trên số tiền mà người đó sở hữu bao gồm tài sản, vàng bạc quy đổi thành giá trị tiền tệ. Tiền cũng được người mua và người bán chấp nhận để chuyển đổi thành sản phẩm và dịch vụ. Tiền cũng là một phương tiện để đầu tư và tích lũy. Ví dụ, bạn có thể gửi tiền vào ngân hàng và bạn sẽ được trả lãi hàng tháng. Bên cạnh đó, tiền cũng có thể được sử dụng như một phương tiện lưu trữ. Khi tiền nhiều hơn một người có thể chi tiêu, nó có thể được tiết kiệm. Chức năng của tiền là gì?Tiền tệ có nhiều chức năng, được chia thành 5 chức năng chính. Bao gồm phương tiện trao đổi, phương tiện tích lũy, thanh toán, là thước đo giá trị và khả năng chuyển đổi trên thế giới. Tiền tệ được sử dụng làm phương tiện trao đổiNhư đã nói, khi trao đổi hàng hóa, tiền đóng vai trò trung gian. Trong thời kỳ tiền bạc, con người chỉ sử dụng hàng đổi hàng để có được sản phẩm mà họ muốn. Phương pháp này cũng khá hợp lý, nhưng dần trở nên lỗi thời. Nhờ sự ra đời của tiền tệ, việc trao đổi hàng hóa trở nên dễ dàng hơn. Nó cũng đảm bảo tính công bằng. Thay vì đổi một kg gà lấy nửa cân thịt bò, bạn có thể bán gà với giá 120.000 đồng và mua thịt bò với giá 100.000 đồng. Như vậy, bạn cũng có thể đặt trước 10.000đ cho lần mua sau. Tiền tệ được sử dụng để tích lũyKhi thực tế dư dả và bạn muốn có một tương lai thoải mái hơn, bạn có thể dự trữ tiền. Không ai cấm bạn làm điều này, nhưng nhiều ngân hàng khuyến khích. Bạn tích lũy tiền trong ví, hoặc thẻ tín dụng của ngân hàng, bạn sẽ được hưởng nhiều ưu đãi. Giả sử bạn có 2 tỷ và muốn dự trữ. Thay vì cất giữ trong nhà và một ngày không còn giá trị, bạn có thể gửi vào ngân hàng để có tiền tiết kiệm hàng tháng. Như vậy với lãi suất 7,5% / năm, trung bình mỗi tháng bạn tiết kiệm được thêm 6 triệu 250 nghìn đồng. Trước đây, người ta cất giữ tiền bằng hiện vật vừa khó bảo quản, vừa dễ mất mát, hư hỏng. Để ngân hàng giữ hộ cho bạn là một lựa chọn khá thông minh. Đồng thời, nếu bạn muốn tạo ra lợi nhuận, có một cách là bạn cũng có thể chuyển nó thành vàng và bạc. Xem thêm: Bánh Bèo Vô Dụng là gì – Tại sao nói con gái là Bánh Bèo Vô Dụng Tại sao tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt. Đơn vị tiền tệ được sử dụng để thanh toánTiền tệ là phương tiện thanh toán khi bạn phải đóng góp vào các khoản thanh toán tiền nhà và thuế. Hoặc hóa đơn điện nước, vay mượn trong quá trình lưu thông hàng hóa. Khi đảm nhận chức năng này, tiền không còn là thứ tương đương nữa. Thay vào đó nó chủ trương tách rời hàng hóa và sản phẩm. Cách tiếp cận này góp phần vào sự gia tăng của sự bù trừ lẫn nhau. Nó cũng làm cho việc tính toán đơn giản hơn nhiều. Để đáp ứng được những nhu cầu trên đòi hỏi tiền phải có giá trị bền vững và ổn định. Tiền là thước đo giá trị của hàng hóaNó là một đơn vị đo lường trong việc mua bán hàng hóa. Khi đi siêu thị hay đến cửa hàng quần áo, chúng ta thường thấy người ta in giá của sản phẩm kèm theo. Điều đó cho thấy mỗi món đồ đều có giá trị nhất định. Nó được chuyển thành tiền để khách hàng thanh toán và người bán lấy lại vốn. Giả sử trong cửa hàng có một đôi giày giả và một đôi giày thật. Giày fake có giá 150 nghìn đồng và giày thật có giá 1500000 nghìn đồng. Bạn sẽ so sánh giá cả và chất lượng của sản phẩm. Chức năng của tiền tệ thế giớiTrong quá trình trao đổi hàng hoá trên thế giới, nếu đồng tiền của quốc gia nào được sử dụng nhiều nhất thì gọi là hàm tiền tệ thế giới. Nói chung, nó giống như khi tiền đáp ứng tất cả bốn khả năng trên thế giới. Tại sao chúng ta lại nói rằng tiền là một loại hàng hóa đặc biệt?Tiền tệ là một loại hàng hóaTiền không phải là một thứ gì đó quá trừu tượng, nó đơn giản giống như những thứ hàng hóa thông thường. Đã là hàng hóa thì phải vừa có giá trị vừa có giá trị sử dụng. Điều này đã được đề cập trong hệ thống triết học Mác – Lênin. Giả sử nếu bạc cũng có thể được chọn làm tiền tệ. Trên thực tế, bạc có nhiều hạn chế so với tiền. Trước hết, nó có công dụng tương đương thông thường và công dụng của chất có khả năng chế tạo đồ trang sức hoặc y học. Tuy nhiên, điều đó không bao gồm lao động tương đương để tạo ra nó về mặt giá trị. Tiền còn hơn thế nữa, đó là lý do tại sao chúng ta đến với hai từ đặc biệt tiếp theo. Tiền là một loại hàng hóa đặc biệtHàng hóa không phải là tiền thì không được đổi lấy hàng hóa khác. Nhưng tiền có thể. Đồng thời, việc sử dụng tiền ít liên quan đến sức lao động được kết tinh trong đó. Tiền được sử dụng như một phương tiện để mua và bán các hàng hoá cụ thể khác. Hay nói một cách khác trong vô số mặt hàng. Sau đó, nó được tách ra như một tương đương thông thường. Đồng thời nó là kết quả của mối quan hệ giữa những người sản xuất và tạo ra hàng hoá. Từ những phân tích trên bạn đã hiểu sâu hơn về giá trị của đồng tiền. Đồng thời, nó chứng minh tại sao Tiền tệ là Hàng hóa Đặc biệt. Hi vọng nó sẽ bổ sung kiến thức tài chính cũng như giúp bạn có định hướng kinh doanh tốt hơn.
Mác và kinh tế thị trường (I) TIỀN TỆ PHẢI CHĂNG LÀ HÀNG HOÁ?Trần Hải Hạc Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, từ “chủ nghĩa tư bản” hình như cũng biến mất theo, nhường chỗ cho từ “kinh tế thị trường” để trở thành phạm trù đầu lưỡi của mọi người khi bàn luận về kinh tế. Tại Việt Nam, điều này rõ ràng hơn ở nơi nào hết. Sự thay thế từ ngữ thường hàm ý một sự phân biệt: chủ nghĩa tư bản xem như là một phạm trù tiêu cực, còn kinh tế thị trường là một phạm trù, nếu không có tính tích cực, thì cũng trung tính. Với hàm ý đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra khái niệm “kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa” (tương đương với khái niệm “kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường” của Đảng cộng sản Trung Quốc). Song việc thay đổi từ ngữ không thể không có hậu quả trong nội dung lý luận: Chủ nghĩa tư bản phải chăng đồng nghĩa với khái niệm kinh tế thị trường hiểu theo nghĩa một nền kinh tế trong đó thị trường điều tiết tất cả? Hay đằng sau sự thay thế từ ngữ còn là sự thay thế lý luận về chủ nghĩa tư bản của Các Mác bởi lý luận về kinh tế thị trường của chủ nghĩa tự do kinh tế? Luận điểm của bài viết dưới đây là. Những hạn chế của lý luận mácxít – đặc biệt trong phân tích về tiền tệ và về sức lao động – có nhiều điểm tương đồng với những giới hạn của kinh tế học tự do chủ nghĩa cổ điển và tân cổ điển. Cho nên một sự nhận thức phê phán lý luận về chủ nghĩa tư bản của Mác đồng thời cũng là sự phê phán nhận thức về kinh tế thị trường của kinh tế học thống trị. Đó còn là điều kiện để lý luận của Mác tiếp tục khẳng định tính chất của nó là “phê phán khoa kinh tế chính trị” – tiểu tựa của bộ Tư bản và của hầu hết các tác phẩm kinh tế khác của Mác. Phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mác đặt vấn đề hình như không khác kinh tế học tự do chủ nghĩa cổ điển hay tân cổ điển: Nền kinh tế thị trường biến tất cả thành hàng hoá. Mọi quan hệ xã hội đều trở nên quan hệ mua bán. Từ hạt thóc đến đất đai, và ngay cả sức lao động, không một vật nào không có thị trường và giá cả của nó. Đồng thời, cũng theo cách đặt vấn đề của Mác, không phải bất cứ vật nào được mua bán và có giá cả đều là hàng hoá. Phạm trù hàng hoá chỉ những sản phẩm xuất phát từ một hoạt động có tính tư nhân, được xã hội công nhận là có ích thông qua thể thức thị trường, tức thông qua khả năng của sản phẩm được trao đổi với tiền tệ. Từ định nghĩa này, vấn đề được đặt ra là: đất đai, sức lao động hay tiền tệ có phải là hàng hoá hay không? Trong trường hợp thứ nhất, câu trả lời của Mác dứt khoát: đất đai không thuộc phạm trù hàng hoá; giá cả của đất đai không biểu hiện giá trị của một hàng hoá, mà là một biểu hiện của địa tô (địa tô tư bản hoá), tức là của quan hệ giữa các nhà tư bản và các nhà địa chủ phân chia giá trị thặng dư xã hội. Ngược lại, những phân tích của Mác về tiền tệ và sức lao động khá nhập nhằng, thiếu nhất quán. Trong điều kiện đó, có thể có hai cách đọc Mác, hai cách trả lời khác nhau câu hỏi ở trên. Tiền tệ là hàng hoá1. Đó là cách đọc thông thường nhất, trở thành quan điểm chính thống trong các sách giáo khoa Mác-Lênin. Nói rằng tiền tệ là hàng hoá có nghĩa là tiền tệ, như mọi hàng hoá, có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Nếu vàng, chẳng hạn, là hàng hoá được chọn làm tiền tệ, đặc tính của hàng hoá tiền tệ này nằm ở giá trị sử dụng của nó, vừa có công dụng của một kim loại, vừa có công dụng của vật ngang giá chung. Còn giá trị của tiền tệ, giống như giá trị của mọi hàng hoá khác, do hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra vàng quyết định. Tuy nhiên, đã là vật ngang giá chung, vàng không thể biểu hiện giá trị trong bản thân nó. Do đó không thể có một phạm trù “giá cả tiền tệ”. Tiền tệ chỉ có thể biểu hiện giá trị của nó trong toàn bộ những hàng hoá khác hơn là vàng: đó là hình thái giá trị tương đối của tiền tệ. Lập luận này dẫn đến hai hệ luận:
Tiền tệ, cực đối lập với hàng hoá2. Theo những phân tích của Mác về hình thái giá trị, tiền tệ không phải là hàng hoá, nhưng cũng không phải là phi hàng hoá, mà là cực đối lập với hàng hoá. Trong hình thái giá trị, quan hệ giữa hàng hoá và tiền tệ là quan hệ đối cực (Tư bản, Quyển I, tập 1, nxb Sự thật, trang 74). Nếu vàng là hàng hoá được chọn làm tiền tệ thì cần phân biệt rõ vàng-hàng hoá và vàng-tiền tệ. Vàng là hàng hoá, nhưng khi trở thành tiền tệ thì vàng không còn là một hàng hoá, mà là cực đối lập với hàng hoá. Nói cách khác, khi cử vàng vào địa vị vật ngang giá chung của hàng hoá thì đồng thời cũng là loại vàng ra khỏi thế giới hàng hoá (Tư bản, I, 1, trang 100). Phân tích này có hai hệ quả là vàng-tiền tệ từ bỏ giá trị sử dụng lẫn giá trị riêng của vàng-hàng hoá:
Ngược lại, có một phạm trù “giá cả tiền tệ”: đó là lãi suất, song đây không phải là hình thái biểu hiện giá trị của một hàng hoá, mà là hình thái biểu hiện quan hệ phân phối giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản tài chính và các nhà tư bản công thương nghiệp (Tư bản, III, 2, trang 28). Quan điểm cho rằng tiền tệ là cực đối lập với hàng hoá dẫn đến hai nhận định mấu chốt:
Tiền tệ, một hình thái thể chế hoá3. Song cũng chính ở điểm mấu chốt nói trên những phân tích của bộ Tư Bản lại không hoàn chỉnh. Tiền tệ xuất phát, theo Mác, từ một qui trình lao động tư nhân được xã hội công nhận không thông qua thị trường: vậy thì thông qua thể thức cụ thể nào? Điều này học thuyết Mác không nói rõ. Câu trả lời không thể tìm thấy trong những quan hệ giữa các tác nhân tư nhân trao đổi hàng hoá với nhau. Mặc dù đó là giải thích thông thường nhất, không thể cho rằng tiền tệ là kết quả phát triển tự phát của quan hệ trao đổi hàng hoá trực tiếp giữa nhau, bởi vì hàng hoá mang từ đầu hình thái tiền tệ. Mác đã phủ định kinh tế học cổ điển trên điểm này: quan hệ hàng hoá-tiền tệ không xuất phát từ những trao đổi hiện vật. Nói cách khác, không thể quan niệm hàng hoá tách rời khỏi tiền tệ; vấn đề nguồn gốc của tiền tệ và nguồn gốc của hàng hoá là một: đó là một thể thống nhất. Lập trường của Mác, vì vậy, là từ chối hai thái độ phiến diện: – một mặt, thuyết tiền tệ-ký hiệu (bao gồm thuyết tiền tệ nhà nước) cho rằng tiền tệ chỉ là ký hiệu có tính qui ước xã hội, không quan hệ gì với giới hàng hoá; – mặt khác, thuyết tiền tệ-hàng hoá (bao gồm thuyết tiền tệ kim loại) cho rằng tiền tệ chỉ là một hàng hoá không hơn, không kém, tức là không nhìn thấy sự khác nhau, đối lập giữa tiền tệ và hàng hoá. Theo tác giả bộ Tư bản, chỉ có một hành vi xã hội mới đưa được một hàng hoá lên địa vị vật ngang giá chung và đồng thời loại nó khỏi thế giới hàng hoá. Nhưng Mác không xác định hành vi xã hội đó là gì. Câu trả lời có thể tìm thấy trong mối tương quan mà Mác vạch ra giữa tiền tệ và nhà nước: như là mối tương quan giữa quyền lực của tiền tệ và quyền lực của nhà nước tập quyền; hoặc là mối tương quan giữa quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ xã hội công dân-nhà nước pháp quyền; hoặc một chỉ dẫn khác theo đó, một hàng hoá trở thành tiền tệ thông qua việc xác lập tiêu chuẩn giá cả và việc đúc tiền là hai công việc mà nhà nước độc quyền đảm nhận. Do đó, Mác xác định: đằng sau quyền lực của tiền đúc là quyền lực của nhà nước. (Phê phán khoa kinh tế chính trị, nxb Editions Sociales, các trang 181, 189-190, 193-194, 236). Trên cơ sở đó, có thể đưa ra luận điểm như sau:
Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là thể thức tiền tệ hoá vàng không phải là một quan hệ trao đổi: người mang vàng thoi đến ngân hàng trung ương không làm hành vi bán vàng cho nhà nước, mà qui đổi vàng thành tiền đúc. Cần phân biệt rõ hành vi mua bán hàng hoá là một quan hệ giữa những tác nhân tư nhân với nhau, với hành vi đúc tiền, tức tạo lập tiền tệ, là một quan hệ giữa một tác nhân tư nhân và nhà nước. Trong trường hợp của tín dụng, việc tiền tệ hoá kỳ phiếu tư nhân được thực hiện qua thể thức tái chiết khấu của ngân hàng trung ương. Quan hệ đối cực tư nhân-nhà nước4. Cách đọc Mác trình bày trên đây, nếu có cơ sở, cho phép kết luận rằng thị trường không phải là tổng thể những quan hệ tư nhân mua bán hàng hoá. Những tác nhân tư nhân chỉ là một cực của nền kinh tế thị trường. Cực thứ hai là nhà nước, là cơ cấu thể chế hoá và quản lý tập trung tiền tệ. Nói cách khác, cơ cấu tản quyền tư nhân và cơ cấu tập quyền nhà nước là hai cực đối lập trong thể thống nhất cấu tạo thị trường. Kết luận này cho phép nêu hai nhận định sau cùng:
Thực tế của nhiều nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường còn cho thấy: Khi những ràng buộc cũ đã tan rã mà những ràng buộc mới chưa hình thành, thay vì vận động theo qui luật thị trường, nền kinh tế vận động theo luật rừng(1). Những nơi không có một nhà nước trung ương thực sự thì cũng không có thị trường đúng nghĩa của nó. Trần Hải Hạc* * Đồng tác giả với Pierre Salama của Introduction à l’Economie de Marx, nxb La Découverte, Paris 1992. Chú thích:(1) Trong những kinh nghiệm của Việt Nam, không thể không nhắc tới hệ thống hợp tác xã tín dụng hình thành bất chấp mọi quy tắc và kiểm tra của nhà nước trung ương; và sự sụp đổ dây chuyền của toàn bộ hệ thống đó vào năm 1991. Cũng có thể nhắc đến tình trạng các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu dành quyền quản lý ngoại tệ theo lợi ích riêng của mỗi đơn vị; chỉ từ tháng 10 năm 1994, nhà nước trung ương mới quyết tâm nắm lại quyền quản lý tập trung ngoại tệ thông qua hệ thống ngân hàng. Kỳ sau: Mác và kinh tế thị trường (II): Sức lao động phải chăng là hàng hoá?
Nguồn: Tiền tệ phải chăng là hàng hoá?, DienDan.Org |