Lý phật tử là ai

  • Trang chủ
  • Từ điển phật học
  • LÝ PHẬT TỬ

Tìm kiếm theo chữ cái

Tất cả a b c d e f g h i k l m n o p q r s t u x y z

Giá trị lịch sử

Thất bại trong tay Lý Phật Tử, mất nước và bài học cảnh giác xương máu

Thất bại trong tay Lý Phật Tử, mất nước và bài học cảnh giác xương máu Đời muôn thuở vẫn thường như vậy, những kẻ nào nhu nhược, yếu hèn trong cuộc chiến vì nghĩa lớn, luôn luôn là kẻ liều lĩnh xâu xé quyền lợi trong thái bình. Lý Phật Tử là một trong số những kẻ đó. Sau lần bị bại trận ở Ái Châu, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử chạy về động Dã Năng, lập ra nước Dã Năng. Lý Thiên Bảo xưng là Đào Lang Vương, sống an phận thủ thường trong khu vực lãnh địa riêng của mình. Năm Ất Hợi (555), Lý Thiên Bảo qua đời ở Dã Năng, do không có con nối dõi nên người cùng họ là Lý Phật Tử được đưa lên kế nghiệp. Đời muôn thuở vẫn thường như vậy, những kẻ nào nhu nhược, yếu hèn trong cuộc chiến vì nghĩa lớn, luôn luôn là kẻ liều lĩnh xâu xé quyền lợi trong thái bình. Lý Phật Tử là một trong số những kẻ đó. Lý Phật Tử(李佛子;?-602), người Thái Bình, phủ Long Hưng (Sơn Tây), là cháu họ củaLý Nam Đế. Khác với Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử xưng Đế chứ không chịu yên vị với ngôi Vương, vì thế, để phân biệt với đức ngài Lý Bôn (Lý Bí), các bộ sử cũ thường gọi Lý Bôn là Tiền Lý Nam Đế và gọi Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế. Năm 557, Lý Phật Tử bỏ động Dã Năng và đem hết binh tướng bộ hạ về quê hương Thái Bình. Tại đây, Lý Phật Tử lôi kéo họ hàng dòng tộc, tập hợp lực lượng để nhằm... đánh Triệu Việt Vương. Về phần mình, Việt Vương Triệu Quang Phục do thấy Lý Phật Tử là người cùng họ với Lý Nam Đế nên cũng có phần cả nể. Năm trận ác chiến diễn ra tại Thái Bình, tuy đôi bên chưa phân thắng bại nhưng “quân của (Lý) Phật Tử có phần núng thế. Lý Phật Tử ngờ Triệt Việt Vương có phép lạ bèn xin được giảng hoà và ăn thề là sẽ giao hiếu hoà thuận với nhau. Vua (chỉ Triệu Việt Vương - NKT) nghĩ Lý Phật Tử là người cùng họ với Tiền Lý Nam Đế nên không nỡ cự tuyệt”. Sau lễ ăn thề, hai bên lấy bãi Quần Thần làm ranh giới để chia quyền cai quản. Lý Phật Tử dời sở trị của mình từ Thái Bình về thành Ô Diên còn Triệu Việt Vương thì vẫn trị vì tại thành Long Biên. Thế song lập về chính trị và cục diện chia cắt khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng mới và tiềm lực quân sự bị cạn kiệt rất nhanh. Thống nhất quốc gia trở thành một nhu cầu lớn và rất cấp bách của xã hội đương thời. Bất chấp lời thề, Lý Phật Tử đã thực hiện việc thống nhất quốc gia bằng thủ đoạn lợi dụng hôn nhân tương tự như trước đó hơn 700 năm Triệu Đà đã làm. Do biết Triệu Việt Vương có người con gái tên là Cảo Nương rất xinh đẹp nên Lý Phật Tử đã cậy nhờ mai mối, xin hỏi Cảo Nương về làm vợ cho con trai mình là Nhã Lang (cũng tức là Bát Lang). Nể trọng người cùng họ với Lý Nam Đế, lại thấy hai bên đã tổ chức ăn thề hoà hiếu với nhau, Triệu Việt Vương không chút nghi ngờ, chấp nhận gả Cảo Nương cho Nhã Lang, hơn thế nữa và cho Nhã Lang được đến ở rể ngay trong thành Long Biên. Sự kiện này xảy ra trong năm 557, tức là ngay sau khi năm trận ác chiến giữa đôi bên vừa kết thúc. Kịch bản hiểm độc cũ của Triệu Đà được Lý Phật Tử tái diễn gần như nguyên vẹn : Triệu Việt Vương hoàn toàn tin ở con rể, tin ở thông gia, tin ở con gái đến mức mơ hồ trước mọi dị nghị và mất cảnh giác. Có được tin mật báo và nội ứng từ con trai, Lý Phật Tử lợi dụng lúc Việt Vương sơ hở, năm 571 mang quân đánh úp. Bị đánh bất ngờ, Triệu Việt Vương thất bại, phải đem con gái chạy, nhưng đến đâu cũng bị quân Lý Phật Tử đuổi theo. Cuối cùng, khi Việt Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha (sông Đáy). Ngày 14/8 cùng đường, ông nhảy xuống biển tự vẫn. Đền Cẩm Nang, nơi thờ phụng Triệu Việt Vương tại điểm dừng chân cuối cùng trước khi ông trẫm mình tại cửa Đại Nha Đó là nền tảng có thật của truyền thuyết li kì về cuộc hôn nhân giữa Nhã Lang với Cảo Nương, được hầu hết các bộ chính sử xưa và một số bộ dã sử chép lại. Đại lược như sau : Khi còn ở khu căn cứ bãi Tự Nhiên và đầm Dạ Trạch, Triệu Việt Vương được linh thần là Chử Đồng Tử tặng cho cái móng rồng để cài lên mũ đâu mâu. Đội mũ ấy vào, hễ Triệu Việt Vương hướng móng rồng về phía nào là quân giặc ở phía đó phải thất bại thảm hại. Nhờ móng thần ấy, Triệu Việt Vương đánh tan quân Lương và chém được tướng tổng chỉ huy của chúng là Dương Sàn rồi tiến vào chiếm thành Long Biên, khôi phục nền độc lập và tự chủ. Sau khi Lý Thiên Bảo mất ở động Dã Năng, Lý Phật Tử kế vị và do thấy quân Lương bị đánh đuổi, Lý Phật Tử liền đem hết lực lượng của mình về quê nhà. Đến đây, vì muốn tranh quyền của Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử đã đánh nhau với Triệu Việt Vương năm trận liền, nhưng càng đánh thì thế quân càng núng. Lý Phật Tử ngờ là Triệu Việt Vương có phép thuật lạ nhưng chưa rõ là phép thuật gì, bèn nghĩ kế cầu hoà và tổ chức ăn thề rồi xin kết làm thông gia. Con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang được kết hôn với con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương, sau đó, Nhã Lang được vào ở rể ngay trong thành Long Biên. Được ít lâu, Nhã Lang nói với Cảo Nương rằng : - Trước đây, hai vua cha của chúng ta là kẻ thù, nay lại kết làm thông gia, thế chẳng hay lắm sao? Nhưng, cha nàng có thuật gì mà đẩy lùi quân của cha ta được vậy. Cảo Nương tưởng chồng thật lòng, bèn lấy chiếc mũ đâu mâu có gắn móng rồng của cha ra cho chồng xem. Nhã Lang liền đánh tráo móng rồng, xong, nói với Cảo Nương rằng : - Bấy lâu nay vợ chồng ta quấn quýt yêu thương nhau, thật không nỡ xa cách, nhưng tôi nghĩ công ơn cha mẹ lớn như trời đất, tôi cũng đành phải tạm xa nàng ít lâu để về viếng thăm. Nhã Lang về đem móng rồng cho cha. Hai cha con cùng bàn kế bất ngờ cho quân đến đánh úp. Triệu Việt Vương bị thất bại, chạy đến cửa Đại Nha (193) và nhảy xuống biển tự tử. Kể từ đó, Lý Phật Tử nắm quyền cai trị toàn cõi. Về câu chuyện tình li kì giữa Nhã Lang với Cảo Nương và kết cục bi thảm của Triệu Việt Vương, các sử thần trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã có Lời cẩn án rằng : “Sử cũ chép việc Triệu Việt Vương được cái móng rồng do Chử Đồng Tử ban cho, việc Nhã Lang đi ở rể và lấy trộm cái móng rồng ấy, việc Triệu Việt Vương do mất cái móng rồng mà bị thua... đem ráp những việc đó lại rồi so với chuyện Thục An Dương Vương và Triệu Trọng Thuỷ trước kia thật giống nhau như hệt vậy. Sự kì quái trái với lẽ thường đến mức không cần phải biện bạch thêm. Nhưng, sử cũ chép phần nhiều trùng lắp nhau và sai hẳn sự thực, đại loại là như chuyện này”. Dĩ nhiên, chuyện cái móng rồng mà Chử Đồng Tử đã ban cho Triệu Việt Vương là không thể có thật, nhưng, sự cả nể và cả tin đến mức mơ hồ của Triệu Việt Vương lại là điều hoàn toàn có thật. Mất cảnh giác cũng có nghĩa là đã tự đánh mất thứ vũ khí tự vệ quý giá và hữu hiệu nhất. Móng rồng thực chất cũng chỉ là cách thể hiện theo lối huyền thoại hoá sự thật này mà thôi. Về sự thất bại của Triệu Việt Vương, Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên - sử gia lỗi lạc thời Lê sơ - đã có lời bàn rất xác đáng rằng : “Nếu lấy bá thuật mà xét thì Hậu Lý Nam Đế đánh Triệu Việt Vương quả là đắc kế, nhưng nếu lấy vương đạo mà xét thì việc làm này của Lý Phật Tử còn thua cả chó lợn. Vì sao lại nói như thế ? Khi Tiền Lý Nam Đế ở động Khuất Lão, đem binh quyền trao cho Triệu Việt Vương và Triệu Việt Vương đã thu nhặt tàn quân để giữ đầm Dạ Trạch bùn lầy để đương đầu với Trần Bá Tiên là viên tướng khét tiếng một thời, bắt giết được tuỳ tướng (của Trần Bá Tiên) là Dương Sàn, khiến Trần Bá Tiên phải lui quân về Bắc. Hậu Lý Nam Đế lúc ấy lẩn trốn ở đất Di Lão, chỉ mong thoát khỏi miệng hùm beo, may mà Trần Bá Tiên thì lui về Bắc. Lý Thiên Bảo lại qua đời nên Hậu Lý Nam Đế mới được toàn thân và kế nghiệp. Hậu Lý Nam Đê đem quân đánh Triệu Việt Vương, yếu thế nên mới dùng mưu gian trá xin hoà, lại xin kết làm thông gia. (Triệu) Việt Vương lấy lòng thành mà đối đãi, cắt đất cho ở, mọi việc làm đều chính nghĩa, giao hảo rất phải đạo, thăm viếng cũng rất phải thời, đây há chẳng phải là đạo yên trị lâu dài đó sao ? Vậy mà Hậu Lý Nam Đê lại dùng Nhã Lang để thực hiện mưu gian, vứt bỏ hết cả chính đạo và nhân luân, tham lợi mà huỷ diệt nhân nghĩa, đang tâm đánh cướp lấy nước, tuy rằng thắng được nhưng Nhã Lang phải chịu chết trước, sau đến lượt bản thân Hậu Lý Nam Đế cũng không thoát khỏi cảnh bị bắt đi tù đày, vậy thì có lợi gì đâu”. Hoàng Giáp Ngô Thì Sĩ (1726-1780) cũng có lời bàn rằng : "Đã cùng nhau hoà hiếu sao lại còn bội ước, cái móng rồng trên mũ đâu mâu nào có đáng gì mà nghe mưu gian của trẻ con, đi theo lối cũ của Triệu Đà quả thật là bất trí quá lắm. Đến khi quân nhà Tuỳ kéo sang, chúng chưa bắn một mũi tên nào đã nhục nhã dâng nạp ngọc ngà và dắt dê xin đầu hàng, sao mà ngu đến thế”. Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái - hai tác giả văn học dân tộc nổi tiếng của thế kỉ XIX - đã diễn Nôm theo thể lục bát về mưu gian kế hiểm của Lý Phật Tử và kết cục bi thảm của Triệu Việt Vương như sau : “Tình con rể, nghĩa vợ chồng. Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau. Lân la mới ngỏ tình đầu Nhã Lang trộm lấy đâu mâu đổi liền. Trở về giả chước vấn yên, Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang. Triệu Vương tiến bước vội vàng, Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua. Đem con chạy đến Đại Nha. Than thân bách chiến phải ra đường cùng”. (Đại nam quốc sử diễn ca) Câu chuyện về tấn bi kịch của Triệu Việt Vương đã để lại những bài học đắt giá cho hậu thế. Triệu Việt Vương như An Dương Vương, quá tin vào kẻ thù, cuối cùng nước mất, nhà tan, thân bại danh liệt. Trong khi đó, Lý Phật Tử dù dùng mọi thủ đoạn để giành thắng lợi trong cuộc chiến "nồi da nấu thịt", cuối cùng cũng trở thành "mồi ngon" cho kẻ xâm lược. Nếu như trong hoàn cảnh đất nước mới chỉ giành được độc lập, còn non yếu, sơ khai, Lý Phật Tử bỏ qua lòng tham, đặt lợi ích dân tộc lên trên, chung sức với Triệu Quang Phục, chẳng những đất nước ta chấm dứt được thời kỳ Bắc thuộc vào thế kỷ thứ VI, trở thành cường quốc mà không cần chờ mãi tới năm 938, bản thân Lý Phật Tử cũng không bị nạn “nghịch thiên”, bị kẻ thù bắt giải về Trung Quốc để rồi chết nơi đất khách. Triệu Quang Phục vì cả tin mà "thân bại danh liệt". Còn Lý Phật Tử vì dã tâm mà hại muôn dân trăm họ, trở thành "tội nhân thiên cổ". Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tùy – Việt Nam lại bị phương Bắc đô hộ Năm 571, sau khi lập mưu giết hại được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử đã nắm quyền thống trị toàn cõi. Tuy nhiên, đó chỉ là một chính quyền rất yếu kém và bạc nhược, trong thì không ban hành được một chính sách trị nước tích cực nào đáng kể, ngoài thì không thực hiện được một biện pháp hữu hiệu nào để phòng bị cho quốc gia. Đối với các tập đoàn phong kiến thống trị Trung Quốc, vấn đề xua quân sang xâm lược và tái thiết nền đô hộ nước ta chỉ còn là thời điểm cụ thể. Chính quyền Lý Phật Tử sở dĩ tạm thời được ổn định trong khoảng hơn ba mươi năm (571- 602) bất quá chỉ vì tình hình Trung Quốc lúc bấy giờ cũng chưa thật sự yên tĩnh. Năm 581 (tức là đúng 10 năm sau khi Triệu Việt Vương qua đời) Dương Kiên xoá bỏ được cục diện Nam-Bắc Triều của Trung Quốc và lập ra nhà Tuỳ. Trên danh nghĩa thì nhà Tuỳ thống nhất được Trung Quốc nhưng tiềm lực của nhà Tuỳ chưa mạnh, các cuộc chống đối nhà Tuỳ vẫn liên tục nổi lên. Năm 590, để mở rộng và khẳng định quyền chi phối của mình ở Lĩnh Nam, nhà Tuỳ đã lập ra Phủ Tổng Quản tại Quế Châu, giao chức Tổng Quản cho nhân vật Linh Hồ Li đảm trách. Với chức vụ này, Linh Hồ Li có quyền uy rất lớn, được phép cắt đặt tất cả quan lại từ hàm Thứ Sử trở xuống. Đây chính là bước chuẩn bị cho cuộc Nam chinh của nhà Tuỳ, cũng là mối đe doạ lớn nhất đối với độc lập và chủ quyền của nước Vạn Xuân. Bấy giờ, Lý Phật Tử tuy chưa từng đến Phủ Tổng Quản để yết kiến nhưng trên danh nghĩa công khai đã chịu thần phục Tổng Quản Linh Hồ Li, tức là đã hoàn toàn chịu thần phục đối với triều đình nhà Tuỳ. Đầu năm Nhâm Tuất (602), lấy cớ Lý Phật Tử không chịu vào chầu, triều đình nhà Tuỳ đã sai các tướng Lưu Phương và Kinh Đức Lượng đem khoảng 10 vạn quân (201) đánh Vạn xuân. Lý Phật Tử đã đầu hàng tướng Lưu Phương và lập tức bị Lưu Phương bắt về Trung Quốc. Ách đô hộ của nhà Tuỳ được thiết lập tại Vạn Xuân trong 16 năm (602-618). Tháng 5 năm 617, một quyền thần của triều đình nhà Tuỳ là Lý Uyên (202) đã bất ngờ khởi binh chống lại nhà Tuỳ và đúng một năm sau (tháng 5 năm 618) thì chính Lý Uyên lật đổ được nhà Tuỳ và lập ra một triều đại mới của lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc là nhà Đường (618-907) (203). Ngay sau khi lật đổ nhà Tuỳ, nhà Đường đã thay nhà Tuỳ đô hộ nước ta. Năm 622 (tức là chỉ mới 4 năm sau khi lật đổ được nhà Tuỳ), Đường Cao Tổ (204) đã cho lập ra Giao Châu Đô Hộ Phủ (cơ quan cai trị lấy quân sự làm chỗ dựa chủ yếu nhất). Đến năm 679, Đường Cao Tông (649-683) đã cho đổi Giao Châu Đô Hộ Phủ thành An Nam Đô Hộ Phủ (205), và, gắn liền với quá trình thay đổi nói trên chính là quá trình không ngừng tăng cường ách áp bức bóc lột của phong kiến nhà Đường. Bấy giờ, lợi dụng việc triều đình không thể nào kiểm soát hết dân tình ở tất cả những nơi xa xôi cách trở nên bọn quan lại đô hộ đã ra sức tìm cách vơ vét tài sản của nhân dân ta. Trong thế kỉ VII, Khâu Hoà (206) và Lưu Diên Hựu (207) là hai đại diện tiêu biểu cho lực lượng tham quan ô lại này. Vốn đã uất hận vì cảnh nước mất nhà tan lại phải chịu thêm nạn bị bọn quan quân đô hộ tước đoạt trắng trợn, dân khắp cõi đương thời ai ai cũng đều căm tức. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt và đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc vùng lên tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của bọn ngoại bang. Hai lãnh tụ cũng là hai danh tướng nổi tiếng nhất thế kỉ VII chính là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến. Nguyễn Khắc Thuần Nguồn: Danh tướng Việt Nam Ths Nguyễn Thy Ngà Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:14.0pt; font-family:"Times New Roman","serif";}

Đời muôn thuở vẫn thường như vậy, những kẻ nào nhu nhược, yếu hèn trong cuộc chiến vì nghĩa lớn, luôn luôn là kẻ liều lĩnh xâu xé quyền lợi trong thái bình. Lý Phật Tử là một trong số những kẻ đó.

Sau lần bị bại trận ở Ái Châu, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử chạy về động Dã Năng, lập ra nước Dã Năng. Lý Thiên Bảo xưng là Đào Lang Vương, sống an phận thủ thường trong khu vực lãnh địa riêng của mình. Năm Ất Hợi (555), Lý Thiên Bảo qua đời ở Dã Năng, do không có con nối dõi nên người cùng họ là Lý Phật Tử được đưa lên kế nghiệp.

Đời muôn thuở vẫn thường như vậy, những kẻ nào nhu nhược, yếu hèn trong cuộc chiến vì nghĩa lớn, luôn luôn là kẻ liều lĩnh xâu xé quyền lợi trong thái bình. Lý Phật Tử là một trong số những kẻ đó.

Lý Phật Tử(李佛子;?-602), người Thái Bình, phủ Long Hưng (Sơn Tây), là cháu họ củaLý Nam Đế. Khác với Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử xưng Đế chứ không chịu yên vị với ngôi Vương, vì thế, để phân biệt với đức ngài Lý Bôn (Lý Bí), các bộ sử cũ thường gọi Lý Bôn là Tiền Lý Nam Đế và gọi Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế. Năm 557, Lý Phật Tử bỏ động Dã Năng và đem hết binh tướng bộ hạ về quê hương Thái Bình.

Tại đây, Lý Phật Tử lôi kéo họ hàng dòng tộc, tập hợp lực lượng để nhằm... đánh Triệu Việt Vương. Về phần mình, Việt Vương Triệu Quang Phục do thấy Lý Phật Tử là người cùng họ với Lý Nam Đế nên cũng có phần cả nể.

Năm trận ác chiến diễn ra tại Thái Bình, tuy đôi bên chưa phân thắng bại nhưng “quân của (Lý) Phật Tử có phần núng thế. Lý Phật Tử ngờ Triệt Việt Vương có phép lạ bèn xin được giảng hoà và ăn thề là sẽ giao hiếu hoà thuận với nhau. Vua (chỉ Triệu Việt Vương - NKT) nghĩ Lý Phật Tử là người cùng họ với Tiền Lý Nam Đế nên không nỡ cự tuyệt”.

Sau lễ ăn thề, hai bên lấy bãi Quần Thần làm ranh giới để chia quyền cai quản. Lý Phật Tử dời sở trị của mình từ Thái Bình về thành Ô Diên còn Triệu Việt Vương thì vẫn trị vì tại thành Long Biên. Thế song lập về chính trị và cục diện chia cắt khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng mới và tiềm lực quân sự bị cạn kiệt rất nhanh.

Thống nhất quốc gia trở thành một nhu cầu lớn và rất cấp bách của xã hội đương thời. Bất chấp lời thề, Lý Phật Tử đã thực hiện việc thống nhất quốc gia bằng thủ đoạn lợi dụng hôn nhân tương tự như trước đó hơn 700 năm Triệu Đà đã làm.

Do biết Triệu Việt Vương có người con gái tên là Cảo Nương rất xinh đẹp nên Lý Phật Tử đã cậy nhờ mai mối, xin hỏi Cảo Nương về làm vợ cho con trai mình là Nhã Lang (cũng tức là Bát Lang). Nể trọng người cùng họ với Lý Nam Đế, lại thấy hai bên đã tổ chức ăn thề hoà hiếu với nhau, Triệu Việt Vương không chút nghi ngờ, chấp nhận gả Cảo Nương cho Nhã Lang, hơn thế nữa và cho Nhã Lang được đến ở rể ngay trong thành Long Biên.

Sự kiện này xảy ra trong năm 557, tức là ngay sau khi năm trận ác chiến giữa đôi bên vừa kết thúc. Kịch bản hiểm độc cũ của Triệu Đà được Lý Phật Tử tái diễn gần như nguyên vẹn : Triệu Việt Vương hoàn toàn tin ở con rể, tin ở thông gia, tin ở con gái đến mức mơ hồ trước mọi dị nghị và mất cảnh giác.

Có được tin mật báo và nội ứng từ con trai, Lý Phật Tử lợi dụng lúc Việt Vương sơ hở, năm 571 mang quân đánh úp.

Bị đánh bất ngờ, Triệu Việt Vương thất bại, phải đem con gái chạy, nhưng đến đâu cũng bị quân Lý Phật Tử đuổi theo. Cuối cùng, khi Việt Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha (sông Đáy). Ngày 14/8 cùng đường, ông nhảy xuống biển tự vẫn.

Lý phật tử là ai

Đền Cẩm Nang, nơi thờ phụng Triệu Việt Vương tại điểm dừng chân cuối cùng trước khi ông trẫm mình tại cửa Đại Nha

Đó là nền tảng có thật của truyền thuyết li kì về cuộc hôn nhân giữa Nhã Lang với Cảo Nương, được hầu hết các bộ chính sử xưa và một số bộ dã sử chép lại. Đại lược như sau :

Khi còn ở khu căn cứ bãi Tự Nhiên và đầm Dạ Trạch, Triệu Việt Vương được linh thần là Chử Đồng Tử tặng cho cái móng rồng để cài lên mũ đâu mâu. Đội mũ ấy vào, hễ Triệu Việt Vương hướng móng rồng về phía nào là quân giặc ở phía đó phải thất bại thảm hại.

Nhờ móng thần ấy, Triệu Việt Vương đánh tan quân Lương và chém được tướng tổng chỉ huy của chúng là Dương Sàn rồi tiến vào chiếm thành Long Biên, khôi phục nền độc lập và tự chủ.

Sau khi Lý Thiên Bảo mất ở động Dã Năng, Lý Phật Tử kế vị và do thấy quân Lương bị đánh đuổi, Lý Phật Tử liền đem hết lực lượng của mình về quê nhà. Đến đây, vì muốn tranh quyền của Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử đã đánh nhau với Triệu Việt Vương năm trận liền, nhưng càng đánh thì thế quân càng núng.

Lý Phật Tử ngờ là Triệu Việt Vương có phép thuật lạ nhưng chưa rõ là phép thuật gì, bèn nghĩ kế cầu hoà và tổ chức ăn thề rồi xin kết làm thông gia. Con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang được kết hôn với con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương, sau đó, Nhã Lang được vào ở rể ngay trong thành Long Biên. Được ít lâu, Nhã Lang nói với Cảo Nương rằng :

- Trước đây, hai vua cha của chúng ta là kẻ thù, nay lại kết làm thông gia, thế chẳng hay lắm sao? Nhưng, cha nàng có thuật gì mà đẩy lùi quân của cha ta được vậy.

Cảo Nương tưởng chồng thật lòng, bèn lấy chiếc mũ đâu mâu có gắn móng rồng của cha ra cho chồng xem. Nhã Lang liền đánh tráo móng rồng, xong, nói với Cảo Nương rằng :

- Bấy lâu nay vợ chồng ta quấn quýt yêu thương nhau, thật không nỡ xa cách, nhưng tôi nghĩ công ơn cha mẹ lớn như trời đất, tôi cũng đành phải tạm xa nàng ít lâu để về viếng thăm.

Nhã Lang về đem móng rồng cho cha. Hai cha con cùng bàn kế bất ngờ cho quân đến đánh úp. Triệu Việt Vương bị thất bại, chạy đến cửa Đại Nha (193) và nhảy xuống biển tự tử. Kể từ đó, Lý Phật Tử nắm quyền cai trị toàn cõi.

Về câu chuyện tình li kì giữa Nhã Lang với Cảo Nương và kết cục bi thảm của Triệu Việt Vương, các sử thần trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã có Lời cẩn án rằng : “Sử cũ chép việc Triệu Việt Vương được cái móng rồng do Chử Đồng Tử ban cho, việc Nhã Lang đi ở rể và lấy trộm cái móng rồng ấy, việc Triệu Việt Vương do mất cái móng rồng mà bị thua... đem ráp những việc đó lại rồi so với chuyện Thục An Dương Vương và Triệu Trọng Thuỷ trước kia thật giống nhau như hệt vậy.

Sự kì quái trái với lẽ thường đến mức không cần phải biện bạch thêm. Nhưng, sử cũ chép phần nhiều trùng lắp nhau và sai hẳn sự thực, đại loại là như chuyện này”.

Dĩ nhiên, chuyện cái móng rồng mà Chử Đồng Tử đã ban cho Triệu Việt Vương là không thể có thật, nhưng, sự cả nể và cả tin đến mức mơ hồ của Triệu Việt Vương lại là điều hoàn toàn có thật. Mất cảnh giác cũng có nghĩa là đã tự đánh mất thứ vũ khí tự vệ quý giá và hữu hiệu nhất. Móng rồng thực chất cũng chỉ là cách thể hiện theo lối huyền thoại hoá sự thật này mà thôi.

Về sự thất bại của Triệu Việt Vương, Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên - sử gia lỗi lạc thời Lê sơ - đã có lời bàn rất xác đáng rằng : “Nếu lấy bá thuật mà xét thì Hậu Lý Nam Đế đánh Triệu Việt Vương quả là đắc kế, nhưng nếu lấy vương đạo mà xét thì việc làm này của Lý Phật Tử còn thua cả chó lợn.

Vì sao lại nói như thế ? Khi Tiền Lý Nam Đế ở động Khuất Lão, đem binh quyền trao cho Triệu Việt Vương và Triệu Việt Vương đã thu nhặt tàn quân để giữ đầm Dạ Trạch bùn lầy để đương đầu với Trần Bá Tiên là viên tướng khét tiếng một thời, bắt giết được tuỳ tướng (của Trần Bá Tiên) là Dương Sàn, khiến Trần Bá Tiên phải lui quân về Bắc.

Hậu Lý Nam Đế lúc ấy lẩn trốn ở đất Di Lão, chỉ mong thoát khỏi miệng hùm beo, may mà Trần Bá Tiên thì lui về Bắc. Lý Thiên Bảo lại qua đời nên Hậu Lý Nam Đế mới được toàn thân và kế nghiệp.

Hậu Lý Nam Đê đem quân đánh Triệu Việt Vương, yếu thế nên mới dùng mưu gian trá xin hoà, lại xin kết làm thông gia. (Triệu) Việt Vương lấy lòng thành mà đối đãi, cắt đất cho ở, mọi việc làm đều chính nghĩa, giao hảo rất phải đạo, thăm viếng cũng rất phải thời, đây há chẳng phải là đạo yên trị lâu dài đó sao ?

Vậy mà Hậu Lý Nam Đê lại dùng Nhã Lang để thực hiện mưu gian, vứt bỏ hết cả chính đạo và nhân luân, tham lợi mà huỷ diệt nhân nghĩa, đang tâm đánh cướp lấy nước, tuy rằng thắng được nhưng Nhã Lang phải chịu chết trước, sau đến lượt bản thân Hậu Lý Nam Đế cũng không thoát khỏi cảnh bị bắt đi tù đày, vậy thì có lợi gì đâu”.

Hoàng Giáp Ngô Thì Sĩ (1726-1780) cũng có lời bàn rằng : "Đã cùng nhau hoà hiếu sao lại còn bội ước, cái móng rồng trên mũ đâu mâu nào có đáng gì mà nghe mưu gian của trẻ con, đi theo lối cũ của Triệu Đà quả thật là bất trí quá lắm.

Đến khi quân nhà Tuỳ kéo sang, chúng chưa bắn một mũi tên nào đã nhục nhã dâng nạp ngọc ngà và dắt dê xin đầu hàng, sao mà ngu đến thế”.

Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái - hai tác giả văn học dân tộc nổi tiếng của thế kỉ XIX - đã diễn Nôm theo thể lục bát về mưu gian kế hiểm của Lý Phật Tử và kết cục bi thảm của Triệu Việt Vương như sau :

“Tình con rể, nghĩa vợ chồng.

Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau.

Lân la mới ngỏ tình đầu

Nhã Lang trộm lấy đâu mâu đổi liền.

Trở về giả chước vấn yên,

Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang.

Triệu Vương tiến bước vội vàng, Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua.

Đem con chạy đến Đại Nha.

Than thân bách chiến phải ra đường cùng”.

(Đại nam quốc sử diễn ca)

Câu chuyện về tấn bi kịch của Triệu Việt Vương đã để lại những bài học đắt giá cho hậu thế. Triệu Việt Vương như An Dương Vương, quá tin vào kẻ thù, cuối cùng nước mất, nhà tan, thân bại danh liệt.

Trong khi đó, Lý Phật Tử dù dùng mọi thủ đoạn để giành thắng lợi trong cuộc chiến "nồi da nấu thịt", cuối cùng cũng trở thành "mồi ngon" cho kẻ xâm lược.

Nếu như trong hoàn cảnh đất nước mới chỉ giành được độc lập, còn non yếu, sơ khai, Lý Phật Tử bỏ qua lòng tham, đặt lợi ích dân tộc lên trên, chung sức với Triệu Quang Phục, chẳng những đất nước ta chấm dứt được thời kỳ Bắc thuộc vào thế kỷ thứ VI, trở thành cường quốc mà không cần chờ mãi tới năm 938, bản thân Lý Phật Tử cũng không bị nạn “nghịch thiên”, bị kẻ thù bắt giải về Trung Quốc để rồi chết nơi đất khách.

Triệu Quang Phục vì cả tin mà "thân bại danh liệt". Còn Lý Phật Tử vì dã tâm mà hại muôn dân trăm họ, trở thành "tội nhân thiên cổ".

Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tùy – Việt Nam lại bị phương Bắc đô hộ

Năm 571, sau khi lập mưu giết hại được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử đã nắm quyền thống trị toàn cõi. Tuy nhiên, đó chỉ là một chính quyền rất yếu kém và bạc nhược, trong thì không ban hành được một chính sách trị nước tích cực nào đáng kể, ngoài thì không thực hiện được một biện pháp hữu hiệu nào để phòng bị cho quốc gia. Đối với các tập đoàn phong kiến thống trị Trung Quốc, vấn đề xua quân sang xâm lược và tái thiết nền đô hộ nước ta chỉ còn là thời điểm cụ thể.

Chính quyền Lý Phật Tử sở dĩ tạm thời được ổn định trong khoảng hơn ba mươi năm (571- 602) bất quá chỉ vì tình hình Trung Quốc lúc bấy giờ cũng chưa thật sự yên tĩnh.

Năm 581 (tức là đúng 10 năm sau khi Triệu Việt Vương qua đời) Dương Kiên xoá bỏ được cục diện Nam-Bắc Triều của Trung Quốc và lập ra nhà Tuỳ. Trên danh nghĩa thì nhà Tuỳ thống nhất được Trung Quốc nhưng tiềm lực của nhà Tuỳ chưa mạnh, các cuộc chống đối nhà Tuỳ vẫn liên tục nổi lên.

Năm 590, để mở rộng và khẳng định quyền chi phối của mình ở Lĩnh Nam, nhà Tuỳ đã lập ra Phủ Tổng Quản tại Quế Châu, giao chức Tổng Quản cho nhân vật Linh Hồ Li đảm trách.

Với chức vụ này, Linh Hồ Li có quyền uy rất lớn, được phép cắt đặt tất cả quan lại từ hàm Thứ Sử trở xuống. Đây chính là bước chuẩn bị cho cuộc Nam chinh của nhà Tuỳ, cũng là mối đe doạ lớn nhất đối với độc lập và chủ quyền của nước Vạn Xuân.

Bấy giờ, Lý Phật Tử tuy chưa từng đến Phủ Tổng Quản để yết kiến nhưng trên danh nghĩa công khai đã chịu thần phục Tổng Quản Linh Hồ Li, tức là đã hoàn toàn chịu thần phục đối với triều đình nhà Tuỳ.

Đầu năm Nhâm Tuất (602), lấy cớ Lý Phật Tử không chịu vào chầu, triều đình nhà Tuỳ đã sai các tướng Lưu Phương và Kinh Đức Lượng đem khoảng 10 vạn quân (201) đánh Vạn xuân. Lý Phật Tử đã đầu hàng tướng Lưu Phương và lập tức bị Lưu Phương bắt về Trung Quốc. Ách đô hộ của nhà Tuỳ được thiết lập tại Vạn Xuân trong 16 năm (602-618).

Tháng 5 năm 617, một quyền thần của triều đình nhà Tuỳ là Lý Uyên (202) đã bất ngờ khởi binh chống lại nhà Tuỳ và đúng một năm sau (tháng 5 năm 618) thì chính Lý Uyên lật đổ được nhà Tuỳ và lập ra một triều đại mới của lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc là nhà Đường (618-907) (203).

Ngay sau khi lật đổ nhà Tuỳ, nhà Đường đã thay nhà Tuỳ đô hộ nước ta. Năm 622 (tức là chỉ mới 4 năm sau khi lật đổ được nhà Tuỳ), Đường Cao Tổ (204) đã cho lập ra Giao Châu Đô Hộ Phủ (cơ quan cai trị lấy quân sự làm chỗ dựa chủ yếu nhất).

Đến năm 679, Đường Cao Tông (649-683) đã cho đổi Giao Châu Đô Hộ Phủ thành An Nam Đô Hộ Phủ (205), và, gắn liền với quá trình thay đổi nói trên chính là quá trình không ngừng tăng cường ách áp bức bóc lột của phong kiến nhà Đường.

Bấy giờ, lợi dụng việc triều đình không thể nào kiểm soát hết dân tình ở tất cả những nơi xa xôi cách trở nên bọn quan lại đô hộ đã ra sức tìm cách vơ vét tài sản của nhân dân ta. Trong thế kỉ VII, Khâu Hoà (206) và Lưu Diên Hựu (207) là hai đại diện tiêu biểu cho lực lượng tham quan ô lại này.

Vốn đã uất hận vì cảnh nước mất nhà tan lại phải chịu thêm nạn bị bọn quan quân đô hộ tước đoạt trắng trợn, dân khắp cõi đương thời ai ai cũng đều căm tức. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt và đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc vùng lên tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của bọn ngoại bang. Hai lãnh tụ cũng là hai danh tướng nổi tiếng nhất thế kỉ VII chính là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến.

Nguyễn Khắc Thuần

Nguồn: Danh tướng Việt Nam

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang

0 Tổng số:

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Các tin khác

  • Miếu Đồng Cổ, thờ phụng sơn thần Đồng Cổ (thần Trống Đồng)
  • Ghé thăm Khu di tích Lệ Chi Viên
  • Đền Chôi thờ Đức Hỏa Nhạc đại vương, có công rèn roi sắt, ngựa sắt cho Thánh Gióng đánh giặc Ân.
  • Đền Hạ Mã xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thờ phụng Thánh Gióng
  • Đền Hàng Tổng xã Xuân Thu, huyện Sóc Sơn thờ phụng Thánh Gióng
  • Đền Sọ (đền Tam Tổng, thờ phụng Thánh Phù Đổng Thiên vương thời Hùng vương thứ IV
  • Đền Thắng Trí, thờ phụng Cao Sơn Đại vương, Quý Minh Dại vương
  • Đền Thanh Nhàn, thờ phụng Thánh Phù Đổng Thiên vương
  • Câu chuyện bảo vệ cảnh quan xung quanh Đền thờ Hai Bà Trưng thời Pháp thuộc
  • Đền Sông thờ phụng Lạc Long Vương thượng đẳng thần, Hà Bá thủy quan đại vương và Ngư Phụ tiên sư
  • 12345...>>