Họ liên là dân tộc gì năm 2024

"Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...".

Đó là câu nói lưu danh muôn đời, một trong những biểu tượng của nghìn năm văn hiến nước nhà đã được danh sĩ người dân tộc Tày Thân Nhân Trung soạn hơn 500 năm trước để khắc lên tấm bia tiến sĩ đầu tiên tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Thăng Long), ghi danh người đỗ đạt năm 1442.

Tiến sĩ người Tày và câu nói lưu danh muôn đời

Theo sách Đăng Khoa lục, Thân Nhân Trung (1418-1499) quê ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang ngày nay. Theo gia phả dòng họ, ông là con trai thứ hai của lương y Thân Thái Ất.

Mẹ ông làm lẽ, khi cha đi chữa bệnh xa nhà, hai mẹ con ông thường ra đồng mò cua bắt ốc kiếm sống. Thấy Thân Nhân Trung bắt cá giỏi (sát cá), dân làng gọi ông là Cốc.

Vì nhà nghèo, ông không có tiền ăn học. Hồi đó, một thầy đồ ở Hải Dương về mở lớp dạy cho nho sinh tại Bắc Giang. Thân Nhân Trung đứng ngoài nghe lỏm, lấy gậy chăn vịt viết chữ lên nền đất. Nhờ thông minh hơn người, chẳng lâu sau, ông tinh thông kinh sử, sách truyện.

Họ liên là dân tộc gì năm 2024

Câu nói lưu danh muôn đời của Thân Nhân Trung. (Ảnh: Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội)

Khi triều đình mở khoa thi năm 1469, ai cũng sắm sửa nghiên mực, lều chõng lên đường, riêng Thân Nhân Trung ở nhà. Thầy đồ gọi lên hỏi, ông trả lời: "Nhà con nghèo, không có tiền lo việc đi thi".

Thầy đồ trợ giúp tiền và giục ông đi thi. Ngay cả tên Thân Nhân Trung cũng do thầy đồ đặt cho ông. Tại khoa thi này, dù hơn 50 tuổi, ông đỗ tiến sĩ. Đỗ đạt muộn nhưng gặp được thời thế hưng thịnh, dưới sự trị vì của vua Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung nhanh chóng được tin dùng.

Ông lần lượt làm quan đến những chức như: Lại bộ Thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện kiêm Đông các đại học sĩ, Nhập nội phụ chính, Tế tửu Quốc Tử giám (hiệu trưởng), Phó Đô Nguyên suý trong Tao Đàn Nhị thập bát tú…, được vào hoàng cung dạy học cho các hoàng tử.

Dù ở vị trí nào, Thân Nhân Trung cũng tận lực, trở thành danh nhân văn hoá, chính trị nổi tiếng trong lịch sử.

Bàn về đạo trị nước, bồi dưỡng nhân tài, theo Thân Nhân Trung, người trên phải biết lo cho dân, lo việc nước, sao cho dân giàu, nước mạnh: "Trị nước càng thịnh vượng lòng càng phải thận trọng, càng phải lo cho dân, chăm chỉ chính sự hàng ngày nơm nớp lo lắng".

Tư tưởng xuyên suốt con người Thân Nhân Trung là yêu nước thương dân, ý thức trách nhiệm cao với dân, với nước.

Dòng họ khoa bảng lừng danh

Thân Nhân Trung là tấm gương sáng về tinh thần hiếu học để gia đình, con cháu, quê hương ông noi theo. Nối tiếp truyền thống của cha, hai con trai (Thân Nhân Tín và Thân Nhân Vũ) cùng người cháu (Thân Cảnh Vân) đều cố chí học hành và đỗ tiến sĩ thời Hậu Lê.

Tiêu biểu nhất chính là thám hoa Thân Cảnh Vân - cháu đích tôn của ông. Theo sách Các nhà khoa bảng Việt Nam, Thân Cảnh Vân đỗ thám hoa tại khoa thi Quý Mùi (1487) khi ông mới chỉ 25 tuổi.

Sau khi đỗ đại khoa, Thân Cảnh Vân ra làm quan trong triều cùng ông nội Thân Nhân Trung, chú ruột Thân Nhân Vũ và cha là Thân Nhân Tín. Vậy là, gia đình Thân Nhân Trung có tới 3 đời liên tiếp với 4 người đỗ đại khoa và làm quan cùng triều. Đó là vinh hiển nghìn năm có một trong lịch sử khoa bảng nước nhà.

Trước cảnh hưng thịnh ấy của gia đình họ Thân, vua Lê Thánh Tông từng ca ngợi: "Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển / Nhị Thân phụ tử mộc ân vinh", nghĩa là: Mười anh em nhà họ Trịnh nối nhau quý hiển / Hai cặp cha con nhà họ Thân tắm gội ân vinh.

Không chỉ có tác động trực tiếp tới gia đình, Thân Nhân Trung còn là người mở đầu cho truyền thống hiếu học ở quê nhà.

Noi gương ông, con cháu vùng đất Yên Ninh ra sức học hành. Theo sử sách, trong thời gian này, quê hương của Thân Nhân Trung có tới 10 nho sinh ưu tú đỗ đại khoa (tiến sĩ) và được người đời tôn vinh là “làng tiến sĩ”.

VU => Họ Vương rất phổ thông tại Trung Quốc là chi nhánh của nhiều họ trước đây là vua hay hoàng đế Trung Quốc. Theo Thông Chí Thị Tộc Lược, họ Vương là chi nhánh của dòng tộc Chu Văn Vương. Vương Đạo là con cháu danh tiếng nhất của dòng họ này. Tài liệu khác cho rằng họ Vương thuộc dòng họ Đế Thuấn. Dòng họ Vương lan tràn khắp nước Tàu như Sơn Đông, Thái Nguyên, Hà Nam, Hà Bắc, Giang Tô.

Đại gia đình các dân tộc vùng miền núi tỉnh Thanh Hóa hiện nay có 28 dân tộc anh em cùng chung sống từ lâu đời. Để bạn đọc có thêm thông tin với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Thanh Hóa, Ban Dân tộc tỉnh xin trân trọng giới thiệu tổng quan về 6 dân tộc thiểu số chủ yếu ở Thanh Hóa đã và đang cùng các dân tộc anh em trong tỉnh xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc anh em. Góp phần xây dựng tỉnh Thanh Hóa thành một tỉnh kiểu mẫu như Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời hằng mơ ước.

Toàn vùng dân tộc miền núi Thanh Hóa có với 1.074522 người. Trong đó đông nhất là dân tộc Kinh có 448.593 người chiếm 43%; 6 dân tộc thiểu số có 621.436 người . Trong đó các dân tộc có dân số tương đối nhiều như: Dân tộc Mường có 364.622 người, Dân tộc Thái có 223.165 người, Dân tộc Mông có 14.917 người, Dân tộc Thổ có 11.530 người, Dân tộc Dao có 6.215 người, Dân tộc Khơ Mú có 978 người. Còn lại 21 dân tộc thiểu số khác có 4493 người. Trong đó Dân tộc Tày 444 người, Nùng 151 người, Hoa 327 người, Khơ Me 31 người, Gia Rai 27 người, Ê Đê 68 người ….ít nhất là Dân tộc Tà Ôi có 02 người.

DÂN TỘC DAO

Tên tự gọi: Kìm miền, Kìm mùn Tên gọi khác: Mán Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao Năm 2009 ở Thanh Hoá có khoảng 6215 người Dao thuộc hai nhóm: Dao Quần Chẹt và Dao Đỏ. Nhóm Dao Quần Chẹt ở vùng núi thấp có 10 làng ( trong đó 9 làng toàn là người Dao, 1 làng xen ghép ở cùng người Mường, Thái và người Kinh). Ở Huyện Cẩm Thuỷ có các làng: Phú Sơn; Thạch An; Làng ơi. Ở huyện Ngọc Lặc có các làng: Hạ Sơn; Tân Thành và Phùng Sơn. Nhóm Dao Đỏ ở vùng núi thuộc huyện Mường Lát có 3 chòm: Suối Tút; Con Dao; Pù Quăn. Người Dao Quần Chẹt ở Thanh Hoá chủ yếu từ Tuyên Quang, Hoà Bình, Vĩnh Phúc di cư vào hồi đầu thế kỷ XX. Người Dao Đỏ hiện đang sinh sống tại Mường Lát di cư từ Lào qua Việt Nam muộn hơn vào năm 1945. Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm người Dao sinh sống chủ yếu các quan hệ xóm giềng và giòng họ. Người Dao có nhiều họ, nhưng phổ biến nhất là họ Bàn, Đặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau. Sản xuất: Người Dao canh tác phổ biến trên nương, rẫy, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức chính. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lê như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài..chuyên làm ruộng nước. Người Dao Đỏ thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô và các loại rau màu khác. Nhóm Dao Đỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản, giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma.. Người Dao quần chẹt Ăn: Người Dao chủ yếu là ăn cơm, tuy nhiên ở một số nơi lại ăn ngô hoặc ăn cháo nhiều hơn ăn cơm.Khi ăn xong người ta kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.

Mặc: Trước đây đàn ông để tóc daì, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Phụ nữ Dao ăn mặc rất đa dạng, y phục sặc sỡ, thường là áo dài yếm, váy hoặc quần. Ở: Nhà của người Dao rất khác nhau, tùy nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nửa nhà sàn, nửa đất. Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi ngay trong phòng ngủ, nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa nhà để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được phép vào nhà trai. Ma chay: Người Dao kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình, thường thì được liệm vào quan tai, tuy nhiên một số nơi có tục hoả táng cho người chết từ 12 tuổi trở lên. Nhà mới: Muốn làm nhà mới phải xem tuổi các thành viên trong gia đình, nhất là tuổi của chủ nhà. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc…. rồi úp bát lên.Sáng hôm sau ra xem hố, các hạt gạo vẫn giữ nguyên la làm được Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Đạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của ngưòi Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống, đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. Một nghi lễ vừa mang tính chất của Đạo giáo vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa. Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Đặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các ngày nghỉ lễ tôn giáo. Hiện nay, Nhờ có chính sách của Đảng và Nhà nước, người Dao ở Thanh Hoá đã vươn lên trong cuộc sống, từng bước xoá đói giảm nghèo, có hộ khá giả, có hộ trở nên giàu có nhờ kinh tế vườn rừng như hộ ông: Triệu Phúc Hiến ở Cẩm Thuỷ, do biết làm kinh tế giỏi cho thu nhập hàng năm hơn 1 tỷ đồng, giảI quyết thường xuyên cho 05 – 10 lao động…Tại Đại hội DTTS tỉnh Thanh Hoá lần thứ nhất cộng đồng người Dao vinh dự bầu được 04 đại biểu tham dự đại hội và 03 người được đi dự đại hội DTTS toàn quốc vào tháng 5 năm 2010.

DÂN TỘC KHƠ MÚ

Dân tộc Khơ Mú là một c­ư dân cư­ trú lâu đời ở vùng núi rừng miền tây bắc Việt Nam và khu vực bắc Trung bộ. Tập trung ở các tỉnh từ Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Sơn La đến Thanh Hoá và Nghệ An. Dân tộc Khơ Mú nằm trong ngữ hệ Nam Á thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me miền Bắc Việt Nam, cùng chung sống với các dân tộc Thái, Mông. Tr­ớc khi có tên gọi là Khơ Mú nh­ư ngày nay, dân tộc này có khá nhiều tên gọi khác nhau. Về mặt ý thức tự giác dân tộc, từ tr­ước đến nay, ng­ời Khơ Mú tự gọi mình là KhMụ, K­mMụ, C­ư Mụ (nghĩa là ngư­ời hay nhóm ng­ười) hoặc Tênh hay Pu Tênh (có nghĩa là ngư­ời ở trên núi cao). Người Thái gọi là Xá Cẩu, ng­ời Mông gọi là Mảng Cẩu,v.v...(đều có nghĩa là ng­ời Xá có búi tóc ng­ợc). Ở Thanh Hoá, ng­ười Thái gọi ngư­ời Khơ Mú là ngư­ời Kha hay ngư­ời Xá (có nghĩa đen nh­ư giàn bếp) mang hàm ý miệt thị. Gần đây ngư­ời Khơ Mú tự gọi mình là ngư­ời Tình, ngư­ời Đoàn Kết. Ngư­ời Khơ Mú ở Thanh Hoá tr­ước đây sống du canh du cư­. Thực hiện cuộc vận động định canh định cư­, từ năm 1994 đến nay, đồng bào đã định cư­ tập trung tại bản Đoàn Kết (xã Tén Tằn) và bản Lách (xã Mư­ờng Chanh) thuộc huyện M­ường Lát. Hiện nay, có 179 hộ, 978 khẩu, chiếm 0,02 dân số toàn tỉnh. Ng­ời Khơ Mú c­ư trú ở vùng rừng núi cao, hoạt động kinh tế chủ yếu là canh tác n­ơng rãy, du canh du c­ư, nên còn đ­ược gọi là “ngư­ời Xá ăn lửa” để chỉ việc đốt n­ơng, làm rãy đã trở thành tập quán sản xuất của ngư­ời Khơ Mú. Cây trồng, ngoài cây lúa, cây ngô còn có bầu, bí, đậu và các loại cây có củ: Sắn, khoai sọ,v.v.Phư­ơng thức canh tác lạc hậu, hái lượm và săn bắn đ­ược duy trì; chăn nuôi gia súc, gia cầm để phục vụ tín ngư­ỡng thờ cúng, ma chay, cư­ới hỏi, lễ tết và sinh hoạt gia đình; đan lát là nghề thủ công truyền thống nổi tiếng của dân tộc Khơ Mú. Đồ đan của ng­ời Khơ Mú rất bền, đẹp, đạt đến trình độ tinh sảo so với các dân tộc khác quanh vùng. Sản phẩm chủ yếu như­ đồ đựng vận chuyển (gùi, sọt), đồ dùng gia đình (mâm ăn cơm, giỏ đựng, rổ, rá, ghế ngồi..). Trong đó, mâm mây đ­ược xem là sản phẩm đặc trư­ng nhất, rất đ­ược các dân tộc Thaí, Mông, Dao, ư­a thích và mua về dùng. Các nghề thủ công khác ch­a phát triển, nghề dệt vải xuất hiện chư­a lâu. Dân tộc Khơ Mú có một số nét truyền thống như­: Mỗi dòng họ mang tên một loài chim, thú hoặc cây cỏ nào đó trong rừng. Có thể chia làm 3 nhóm họ: Nhóm tên thú, gồm: Hổ, cầy h­ương, chồn; nhóm tên chim: Phư­ợng hoàng đất, chìa vôi, cuốc, bìm bịp; nhóm tên cây: Tỏi, d­ơng xỉ, tu va cút. Các dòng họ kiêng kỵ việc săn bắt, ăn thịt các loại chim, thú, chặt hái các loại cây thuộc dòng họ mình. Đồng bào quan niệm nếu ai vi phạm vào điều cấm kỵ đó sẽ bị thần linh trừng phạt. Đó chính là vết tích tín ngưỡng tô tem (vật tổ) nguyên thuỷ còn lại cho đến ngày nay của ngư­ời Khơ Mú; hôn nhân theo nguyên tắc thuận chiều, đặc biệt trong phạm vi một dòng họ. Trong hôn nhân, nhiều tàn d­ư mẫu hệ còn tồn tại nh­ư: Tục ở rể; hôn nhân anh em vợ, chị em chồng; đám ma ng­ười Khơ Mú gồm nhiều nghi thức tín ng­ưỡng. Điều đặc biệt là không có thầy cúng như­ các dân tộc khác. Ngoài lễ cúng m­ường, ngư­ời Khơ Mú còn có lễ cúng bản, đặc biệt là lễ cúng ma nhà trong dịp lễ, tết và khi con, cháu ốm đau. Bàn thờ ma nhà đặt trên gác bếp, còn ông, bà thờ một gian riêng, kín đáo và rất kiêng kỵ đối với ng­ười ngoài; về văn nghệ, làn điệu dân ca quen thuộc rất đ­ược nhiều ng­ời ­ưa thích là Tơm.. Ng­ười Khơ Mú thích xoè, múa, thổi các loại sáo, đặc biệt là kèn môi. Đến nay, đồng bào Khơ Mú đã thực hiện định canh, định c­ư. Các bản có lớp học. Đồng bào dân tộc Khơ Mú đã và đang cùng đồng bào các dân tộc trong tỉnh đóng góp tích cực vào xây dựng quê hư­ơng Thanh Hoá ngày càng giầu đẹp, văn minh.

DÂN TỘC MÔNG

Dân tộc Mông ở Thanh Hoá 2.361 hộ / 14.917 người, sinh sống ở 46 bản làng, 6 xã, 3 huyện: Quan Hoá, Quan Sơn và Mường Lát. Người dân tộc Mông di cư vào Thanh Hoá khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX từ các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Về sản xuất kinh tế: Người Mông ở Thanh Hoá chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa trên nương rẫy, các loại cây trồng chủ yếu ngoài cây lúa còn có một số loại cây như sắn, ngô, khoai, đậu tương, mì ….. nghề lúa nước ít có điều kiện khai hoang và phát triển, một số ít sống làm nghề thủ công, đan lát và nghề chăn nuôi với hình thức chăn thả. Trước đây, dân tộc Mông chăn nuôi chỉ để phục vụ nhu cầu sinh họat hàng ngày. Tuy nhiên vài năm trở lại đây đã dần hình thành lối chăn nuôi và xuất thành hàng hoá trao đổi.Dân tộc Mông nổi tiếng về nghề rèn, nghề đúc, đan lát, dệt vải và người Mông còn có thể khoan và tự làm nòng súng; nghề làm đồ trang sức như vòng đeo cổ, khuyên tai, nhẫn của người Mông cũng đạt đến mức kỹ thuật cao.

Dân tộc Mông đen Ngoài ra đi săn không những là thói quen mà còn là một nghề xưa nay của người Mông. Nghề đi săn phần nào giải quyết được vấn đề thực phẩm cho gia đình cũng như bảo vệ mùa màng khỏi sự tàn phá của thú rừng.

Dân tộc Mông Hoa Về quan hệ xã hội: Ngoài các tổ chức hành chính, trong cộng đồng người Mông, người già, người có uy tín trong bản, làng có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng đạo đức xã hội cũng như giải quyết tất cả những việc liên quan đến bản, làng và dòng họ. Gia đình người Mông có truyền thống hoà thuận, yêu thương, ít có trường hợp vợ chồng ly dị, bỏ nhau. Trong dòng họ, ông trưởng họ (Txiv dab) là người quyết định tất cả mọi việc của dòng họ, là người đại diện cho tiếng nói của dòng học hoặc một gia đình nào đó trong dòng họ khi có việc lớn. Tang ma: Xưa nay người Mông ở Thanh Hoá đang còn một hủ tục lạc hậu trong tang ma đó là khi người chết không được bỏ vào quan tài mà để người chết nằm trên cái “neeg tuag” - tượng trưng cho con ngựa đưa người chết về với tổ tiên; giết nhiều trâu, bò, lợn, gà để người chết “mang” đi theo về thế thế giới bên kia. Cưới xin: Bố mẹ người Mông không áp đặt việc cưới xin của con cái. Nếu ưng nhau, đôi trái gái tự tìm hiểu và đến một đêm đẹp trời, người con trai đến “bắt” người con gái về nhà mình 3 ngày sau mới đem rượu, thịt đến nhà gái để làm lễ cưới lần một. Lễ cưới lần hai tuỳ theo điều kiện từng gia đình, nếu có điều kiện có thể cưới lần hai sau cưới lần một từ 1 đến 3 năm, nếu chưa có điều kiện có thể lâu hơn. Văn học dân gian người Mông chủ yếu là những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, những câu dân ca như hát giao duyên, cưới xin, làm dâu, mồ côi. Gắn với dân ca có các nhạc cụ như kèn lá, sáo, đàn môi cùng với những điệu múa khèn, múa xoè làm say đắm lòng người; thợ người Mông cũng có thể làm ra được các đồ trang sức được chạm khắc với kỹ thuật cao như khuyên tai, vòng cổ, nhẫn, vòng đeo tay, chân..

Nguồn thực phẩm chính của đồng bào Mông chủ yếu từ trồng trọt, chăn nuôi và săn bắt hái lượm; thường thì dân tộc Mông có 4 món ăn chủ yếu là luộc, xào, nướng và hấp. Cách dự trữ thực phẩm tốt nhất của đồng bào Mông đó là phơi thịt khô trên gác bếp, ủ chua trong chum.. Trang phục dân tộc Mông đặc biệt là trang phục của phụ nữ người Mông có nhiều đường nét hoa văn sặc sỡ, với một số mầu nổi như màu vàng, đỏ, xanh, trắng; chất liệu trang phục ngày xưa chủ yếu được dệt từ sợi lanh, in hoa văn bằng sáp ong; ngày nay được thay thế bởi một số loại chất liệu vải tân tiến mới, in, thêu bằng sợi chỉ với nhiều loại màu khác nhau. Cách tính phong thuỷ của người Mông ở Thanh Hoá khá đơn giản. Trước khi dựng nhà 3 - 4 ngày, chủ nhà mang một ít gạo và 4 cái bát úp 10 - 20 hạt gạo tại ví trí 4 cây cột nhà chính, sáng hôm sau lật 4 cái bát mà không có côn trùng nào mang những hạt gạo đó đi thì coi như có thể làm nhà được. Trong năm, người Mông thường có ít ngày lễ, tết, ngoài ngày tết nguyên đán - Tết chung ở Việt Nam, dân tộc Mông có một số lễ như Lễ tết dành cho thầy cúng của người Mông Đen, Lễ Cúng cơm mới.. Một người đàn ông người Mông, trong đời có một số lễ nhất định phải có như Lễ đặt tên con, Lễ làm vía , Lễ Đặt tên già - Lễ này được tổ chức khi người đàn ông đã có vợ con, mời bố mẹ ngoại sang để trả lại công sinh thành bằng một nửa con lợn ít nhất từ 80 kg trở lên, Lễ Npua tais (Lễ ma lợn) - Lễ này do cháu trai làm cho ông bằng một con lợn mẹ, Lễ Nyuaj dab (Lễ ma bò) - Lễ này tùy theo từng dòng họ, mỗi người con trai sau khi bố mẹ mất điều phải làm, có dòng họ chỉ làm một lần duy nhất, có dòng họ thì bất kỳ khi nào bố mẹ “đòi” thì phải làm. Dân tộc Mông không có hình thức tôn giáo riêng, chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Những năm 80 trở lại đây một số đạo như Tin Lành, Thiên Chúa giáo... đã thâm nhập vào trong cộng đồng người Mông làm xáo trộn cuộc sống cộng đồng và bản sắc văn hoá truyền thống của đồng bào. Tiếng Mông thuộc nhóm ngữ hệ Hmông -Dao; gồm nhiều ngành Mông như Mông Trắng, Mông Đen, Mông Hoa gần với Mông Si và Mông Xanh. Người Mông không có chữ viết cổ riêng. Tuy nhiên, đầu và giữa thế kỷ XX một số học giả đã sử dụng chữ quốc ngữ của một số quốc gia phiên sang tiếng Mông. ở Việt Nam những năm 1970 ông Phan Thanh đã sử dụng chữ quốc ngữ để phiên sang tiếng Mông và được sử dụng phổ biến ở Việt Nam. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước có nhiều chương trình, chính sách dự án lên vùng miền núi dân tộc nói chung và đồng bào dân tộc Mông nói riêng, cuộc sống vật chất và tình thần đồng bào Mông từng bước được cải thiện, nhận thức được nâng lên rõ rệt; từ những năm 2000 trở lại đây đã chấm dứt việc trồng và tái trồng cây thuốc phiện để trồng cây, nuôi con mới, phát triển kinh tế hoà nhập cộng đồng; ý thức tự giác và lòng tự hào dân tộc được khơi dậy, bản sắc văn hoá được giữ gìn và phát huy; cuộc sống ấm no hướng tới làm giàu cho gia đình và xã hội, theo kịp các dân tộc anh em khác, giữ vững an ninh biên cương, bảo vệ tổ quốc đặc biệt là khu vực biên giới Việt - Lào, phía Tây tỉnh Thanh Hoá. Tại Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hoá lần thứ nhất (18/12/2009), dân tộc Mông có 12 đại biểu chính thức và 3 đại biểu đi dự Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất năm 2010.

DÂN TỘC MƯỜNG

Người Mường - là tộc danh đã được các cứ liệu khoa học, các nhà nghiên cứu và đồng bào tự nhận về dân tộc mình từ xa xưa. Cũng như người Mường ở Hoà Bình, Phú Thọ - Người Mường Thanh Hoá có nguồn gốc từ người Việt cổ. Thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường; Rất gần với tiếng Việt ( có thể nói theo nghĩa tương đối 70 - 75%). Người Mường Thanh Hoá có hai nhánh . Nhánh Mường cổ - mường gốc - Mường ống từ Bá Thước thường gọi là Mường Trong ; Và một bộ phận di cư đến từ Hoà Bình vào thường gọi là Mường ngoài.