Cảm nhận nhân vật Tràng ngắn nhặt

Câu 6. Cảm nhận về nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

Kim Lân thuộc tốp những nhà văn viết ít, trong khi một số tác giả như Tô Hoài có đến hàng trăm tác phẩm, thì số tác phẩm của Kim Lân có thể đếm được trên đầu ngón tay. Nhưng những gì mà ông để lại nhớ nhiều , nhớ mãi. Chỉ một “vợ nhặt”, một “làng” cũng đủ để đưa ông lên hàng những tác giả nổi tiếng.

“Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật, mà nhân vật nào cũng có ấn tượng. Có những nhân vật không tên nhưng lại có khả năng lưu danh muôn thuở. Nói vậy là để thấy tài sáng tạo cuả Kim Lân và  sức sống tiềm tàng của tác phẩm.

Tràng là một thanh niên đứng tuổi, hình hài thô tháp, lại còn là kẻ nghèo nhất trong xóm ngụ cư. Nhà tràng chỉ là một căn lều dúm dơ, xiêu vẹo mà có thể gió thổi bay lúc nào không biết.

Mẹ Tràng đã già lại yếu “đôi mắt nhòe”, “đôi tai nghễnh đãng, dáng đi lỏng thỏng, cử chỉ lập cập, lóng ngóng”. Nói cách khác,  bà trụ lại với đời như thể đang chờ đợi tử thần đến rước đi. Trong cái đói khủng khiếp  năm Ất Dậu -1945, mẹ con Tràng lê lết cầm hơi, tồn tại từng ngày nhờ vào công việc  kéo xe của Tràng. Tính tình của Tràng ngay cả trẻ con cũng bỡn cợt, trêu chọc chứng tỏ anh có lớn mà trí khôn không lớn. Trong mắt mọi người Tràng luôn luôn có thể bị khinh thường, giễu cợt.

Từ cái hoàn cảnh ấy, có thể khẳng định: Tràng sẽ không bao giờ mơ đến chuyện lấy vợ. 

Nhưng điều đáng quý ở Tràng là ngay cả trước thực trạng ấy, một thực trạng bi thảm anh vẫn trếu táo, tự trào, còn biết bông đùa. Thế rồi trong một lần tình cờ đang gò lưng kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Tràng tự hò một câu để an ủi mình cho đỡ mệt. Điều quan trọng là câu hò ấy có cụm “ cơm trắng mấy giò” và dĩ nhiên mấy tiếng ấy lập tức làm cho những người phụ nữ đã mấy ngày ngồi vêu ra ở chợ không thể không để ý, và đã có một ả sán lại gần,biến sự đùa của Tràng thành sự thật. Tràng không ngờ mình đói lại còn có kẻ đói hơn mình. Tràng cho người phụ nữ ấy ăn, tình thương người đã dẫn Tràng đến vơi nghĩa cử hào hiệp trong cơn đó khát. Tràng không chỉ cho người phụ nữ ấy ăn như là cách bố thí mà Tràng còn  cho Thị ăn bằng của tình yêu thương, sự đồng cảm và bằng sự cưu mang, chia sẻ. Nhưng rồi một tình huống không ngờ rằng  người phụ nữ ấy không những cần tràng một bựa ăn mà còn muốn tìm ở Tràng mọt điểm tựa suốt đời. Khi biết Tràng chưa có vợ, người phụ nữ đã dũng cảm tiến lên để được làm vợ Tràng. Vậy là với Tràng lúc này,không còn là chuyện bông lơn, bỡn cợt nữa mà là trở thành chuyện hệ trọng của cả cuộc đời người. Tràng ứng xử hoàn toàn khác, một cách nghiêm túc, đứng đắn và anh đã chủ động  vào chợ sắm cho Thị mấy thứ và “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Với Tràng đó có thể là những thứ dẫn cưới, một cổ cưới chăng? Từ giây phút này Tràng đã sống với Thị như những người đang yêu và được yêu, cũng cho thấy cũng  từ tình thương mà chuyển đến tình yêu là chuyện quá bất ngờ và đột ngột. Nhưng Tràng không hề lung túng, bối rối trước tình huống đó. Rồi chính anh cũng chủ động dắt người con gái ấy về để tình mẹ một cách đàng hoàng, nghiêm túc.

Thú vị thay, con đường từ chợ về nhà vốn dĩ là con đường tử thần ngự trị, con đường của sự chết chóc, nay đã trở thành một con đường xôn xao, rạo rực của ái tình. Mà Tràng là một nửa làm nên sự xôn xao, rạo rực ấy.

Về đến nhà, tuy chưa tin được rằng là mình đã có vợ, nhưng Tràng đã biết làm tròn nhiệm vụ của một người chồng.  Tràng đã biết cùng với vợ làm nên một tổ ấm trong cảnh cơ hàn. Tràng đã cảm nhận được cái đẹp của tình yêu, cái giá của ái ân, hạnh phúc “phởn phơ hư…” Chính Tràng trong cơn đói khát như một  thân phận, bèo bọt đã dạt trôi đến với một thân phận bèo bọt khác, nhưng cả hai đã không làm cho nhau bèo bọt hơn nữa. Ngược lại đã biết nương tựa vào nhau để sống, để hướng tới tương lai.

Kim Lân đã có những trang viết rất hay để miêu tả tâm lý nhân vật. Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo, đó chính là tình người và hi vọng.

Người viết: Đặng Triệu Mận

Cảm nhận về nhân vật Tràng truyện ngắn Vợ nhặt

Một bài văn cảm nhận về nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Anh/chị nào quan tâm có thể xem tham khảo nhé.

Bài viết tham khảo:

Kim Lân nhà văn thường viết về người nông dân, truyện ngắn Vợ nhặt mang giá trị tư tưởng nhân đạo lớn dù cuộc sống nghèo khổ, cơ cực nhưng vẫn yêu thương đùm bọc nhau. Trong đó nhân vật Tràng là một trong những con người tốt bụng, nhân hậu.

Truyện Vợ nhặt được tác giả viết vào thời điểm khi mà nạn đói đang hoành hành dữ dội và cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Tràng và gia đình của mình cũng đang vật lộn để mưu sinh.

Xem thêm >>> Soạn bài Cảm nhận về nhân vật Tràng truyện ngắn Vợ nhặt

Trong truyện nhân vật Tràng được tác giả miêu tả với bề ngoài xấu xí, thô kệch, nghèo khó, rách rưới. Anh Tràng làm nghề kéo xe bò thuê. Tràng có đủ các yếu tố để trở nên ế vợ. Điều làm cả xóm bất ngờ đó chính là Tràng có vợ mà là vợ nhặt, ai cũng ngạc nhiên và xen lẫn lo lắng khi thời buổi này nuôi thêm người sẽ túng quẫn hơn.
Tràng và gặp người vợ của mình khi thấy cô ta sắp chết đói, với lòng nhân hậu Tràng cho ăn và quyết định cưu mang về làm vợ. Bắt đầu từ đây diễn biến tâm lý của nhân vật có nhiều thay đổi từ suy nghĩ ăn uống không có mà còn đèo bồng cho đến “chậc, kệ”, anh mong muốn một mái ấm gia đình nhiều hơn là lo sợ về cái đói trước mắt.Lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc của nhân vật này đã lấn áp nghịch cảnh đen tối.

Từ một kẻ xấu xí, thô kệch nay đã có vợ, Tràng có nhiều sự thay đổi đáng kể, “Tràng quên hết cảnh sống ê chè, tăm tối phía trước”, “trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”, sau khi cưới trong lòng thấy khác lạ nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, mẹ và nàng dâu cùng nhau làm lụng sự đoàn kết yêu thương nhau làm cậu ấm lòng. Giờ đây nhân vật Tràng thấu hiếu được giá trị của tình cảm gia đình trọn vẹn, Tràng càng yêu vợ và thấy có trách nhiệm với mẹ. Trong cảnh nghặt ngèo của cuộc sống nhưng con người như Tràng vẫn hướng đến tình cảm gia đình, đùm bọc, che chở người thân vượt qua ranh giới sống chết.

Hình ảnh cảm động nhất có thể kể đến là cả nhà cùng ăn nồi cháo cám đắng ngắt, khó nuốt nhưng cả nhà vẫn vui vẻ ăn ngon lành. Tràng hiểu rõ tình cảnh hiện tại và bằng lòng với nghèo khổ để hướng đến hạnh phúc, sự nghèo đói không thể ngăn con người khát khao hạnh phúc.

Nhân vật Tràng được tác giả tập trung miêu tả trước trong và sau khi lấy vợ, diễn biến tâm lý thay đổi thể hiện nhân phẩm của nhân vật dù nghèo đói, bần hàn nhưng vẫn yêu thương,đùm bọc nhau và khát khao hạnh phúc gia đình như bao con người khác.

» Tóm tắt Vợ nhặt

» Cảm nhận về nhân vật Phương Định

Văn Học - Tags: vợ nhặt
  • Chứng minh câu tục ngữ Có chí thì nên

  • Sự bổ ích của những chuyến tham quan, du lịch đối với học sinh

  • Cảm nhận khổ 2 bài thơ Vội vàng

  • Chứng minh tục ngữ là túi khôn của nhân dân

  • Cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác Lớp 9

  • Chứng minh câu tục ngữ gần mực thì đen gần đèn thì sáng

  • Cảm nhận khổ thơ 2 3 bài Viếng lăng Bác

Cảm nhận nhân vật Tràng ngắn nhặt

Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân gồm dàn ý chi tiết kèm theo 5 bài văn mẫu hay được Download.vn tuyển chọn từ những bài làm văn hay nhất của học sinh trên cả nước.

Cảm nhận nhân vật Tràng ngắn nhặt

Qua 5 bài cảm nhận nhân vật Tràng giúp các em tham khảo, mở rộng vốn từ để chuẩn bị thật tốt kiến thức cho kỳ thi THPT Quốc gia 2021 sắp tới. Bên cạnh đó các em tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12. Chúc các bạn học tốt.

Cảm nhận nhân vật Tràng ngắn nhặt

Dọc mùng khô ĐIỆN THOẠI/ZALO : 0985364288

  • Dàn ý cảm nhận về nhân vật Tràng
  • Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 1
  • Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 2
  • Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 3
  • Cảm nhận nhân vật Tràng – Mẫu 4
  • Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 5

Dàn ý cảm nhận về nhân vật Tràng

I. Mở bài

  • Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
  • Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh

  • Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …
  • Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …

*Tâm trạng và hành động

Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

– Lần gặp 2:

+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

– Trên đường về:

  • Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.
  • Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

– Khi về đến nhà:

  • Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
  • Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
  • Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
  • Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

  • Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
  • Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

III. Kết bài

  • Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.
  • Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 1

Kim Lân thuộc tốp những nhà văn viết ít, trong khi một số tác giả như Tô Hoài có đến hàng trăm tác phẩm, thì số tác phẩm của Kim Lân có thể đếm được trên đầu ngón tay. Nhưng những gì mà ông để lại nhớ nhiều , nhớ mãi. Chỉ một “vợ nhặt”, một “làng” cũng đủ để đưa ông lên hàng những tác giả nổi tiếng.

“Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật, mà nhân vật nào cũng có ấn tượng. Có những nhân vật không tên nhưng lại có khả năng lưu danh muôn thuở. Nói vậy là để thấy tài sáng tạo của Kim Lân và sức sống tiềm tàng của tác phẩm.

Tràng là một thanh niên đứng tuổi, hình hài thô tháp, lại còn là kẻ nghèo nhất trong xóm ngụ cư. Nhà tràng chỉ là một căn lều dúm dơ, xiêu vẹo mà có thể gió thổi bay lúc nào không biết.

Mẹ Tràng đã già lại yếu “đôi mắt nhòe”, “đôi tai nghễnh đãng, dáng đi lỏng thỏng, cử chỉ lập cập, lóng ngóng”. Nói cách khác, bà trụ lại với đời như thể đang chờ đợi tử thần đến rước đi. Trong cái đói khủng khiếp năm Ất Dậu -1945, mẹ con Tràng lê lết cầm hơi, tồn tại từng ngày nhờ vào công việc kéo xe của Tràng. Tính tình của Tràng ngay cả trẻ con cũng bỡn cợt, trêu chọc chứng tỏ anh có lớn mà trí khôn không lớn. Trong mắt mọi người Tràng luôn luôn có thể bị khinh thường, giễu cợt.

Từ cái hoàn cảnh ấy, có thể khẳng định: Tràng sẽ không bao giờ mơ đến chuyện lấy vợ.

Nhưng điều đáng quý ở Tràng là ngay cả trước thực trạng ấy, một thực trạng bi thảm anh vẫn tếu táo, tự trào, cần biết bông đùa. Thế rồi trong một lần tình cờ đang gò lưng kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Tràng tự hò một câu để an ủi mình cho đỡ mệt. Điều quan trọng là câu hò ấy có cụm “ cơm trắng mấy giò” và dĩ nhiên mấy tiếng ấy lập tức làm cho những người phụ nữ đã mấy ngày ngồi vêu ra ở chợ không thể không để ý, và đã có một ả sán lại gần,biến sự đùa của Tràng thành sự thật. Tràng không ngờ mình đói lại còn có kẻ đói hơn mình. Tràng cho người phụ nữ ấy ăn, tình thương người đã dẫn Tràng đến với nghĩa cử hào hiệp trong cơn đói khát. Tràng không chỉ cho người phụ nữ ấy ăn như là cách bố thí mà Tràng còn cho Thị ăn bằng của tình yêu thương, sự đồng cảm và bằng sự cưu mang, chia sẻ. Nhưng rồi một tình huống không ngờ rằng người phụ nữ ấy không những cần tràng một bựa ăn mà còn muốn tìm ở Tràng một điểm tựa suốt đời. Khi biết Tràng chưa có vợ, người phụ nữ đã dũng cảm tiến lên để được làm vợ Tràng. Vậy là với Tràng lúc này,không còn là chuyện bông lơn, bỡn cợt nữa mà là trở thành chuyện hệ trọng của cả cuộc đời người. Tràng ứng xử hoàn toàn khác, một cách nghiêm túc, đứng đắn và anh đã chủ động vào chợ sắm cho Thị mấy thứ và “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Với Tràng đó có thể là những thứ dẫn cưới, một cỗ cưới chăng? Từ giây phút này Tràng đã sống với Thị như những người đang yêu và được yêu, cũng cho thấy cũng từ tình thương mà chuyển đến tình yêu là chuyện quá bất ngờ và đột ngột. Nhưng Tràng không hề lúng túng, bối rối trước tình huống đó. Rồi chính anh cũng chủ động dắt người con gái ấy về để tình mẹ một cách đàng hoàng, nghiêm túc.

Thú vị thay, con đường từ chợ về nhà vốn dĩ là con đường tử thần ngự trị, con đường của sự chết chóc, nay đã trở thành một con đường xôn xao, rạo rực của ái tình. Mà Tràng là một nửa làm nên sự xôn xao, rạo rực ấy.

Về đến nhà, tuy chưa tin được rằng là mình đã có vợ, nhưng Tràng đã biết làm tròn nhiệm vụ của một người chồng. Tràng đã biết cùng với vợ làm nên một tổ ấm trong cảnh cơ hàn. Tràng đã cảm nhận được cái đẹp của tình yêu, cái giá của ái ân, hạnh phúc “phởn phơ hư…” Chính Tràng trong cơn đói khát như một thân phận, bèo bọt đã dạt trôi đến với một thân phận bèo bọt khác, nhưng cả hai đã không làm cho nhau bèo bọt hơn nữa. Ngược lại đã biết nương tựa vào nhau để sống, để hướng tới tương lai.

Kim Lân đã có những trang viết rất hay để miêu tả tâm lý nhân vật. Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo, đó chính là tình người và hi vọng.

Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 2

Nhà văn Nga I.Bônđarep từng có ý tưởng rằng “Nghệ thuật sinh ra từ những thái cực và xung đột”. Ý kiến này quả đúng khi bàn về truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với tác phẩm Vợ Nhặt nhà văn đã làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh sinh động về hiện thực thê thảm ấy và lạ thay, giữa khoảng trống lay lắt,tối tăm của cuộc sống đói nghèo nhà văn đã cho ta thấy được tấm lòng của những con người đói khổ dù đang bị cái đói, cái chết rình rập nhưng họ vẫn cưu mang, đùm bọc, yêu thương và san sẻ, cùng hướng về sự sống, về hạnh phúc và tương lai. Nó được thể hiện như thế nào qua hình tượng nhân vật Tràng?

Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết không lâu sau nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhà văn đã tái hiện lại thời khắc lịch sử ghê rợn thê lương, nó hòa nhập giữa cõi âm và cõi trần , giữa sự sống và cái chết , giữa người và ma. Tất cả hình ảnh, âm thanh, con người hiện lên đều rất chân thực, không một chút cường điệu. Qua truyện ngắn, người đọc mang đầy đủ những xúc cảm vừa độc đáo, éo le lại đầy cảm động và tin yêu. Đi sâu vào nhân vật Tràng ta sẽ thấy tất cả hiện thực và nhân đạo mà tác giả gửi gắm.

Nhắc đến Tràng là nhắc đến nhân vật được hóa công đẽo gọt quá sơ sài. Tràng- nhân vật chính của truyện được Kim Lân cho xuất hiện trên nền của cái đói với bóng người “xanh xám như những bóng ma”, người sống “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Tràng có cái tên đặc biệt, một thứ đồ của thợ mộc- cái tràng. Anh được ngòi bút Kim Lân vẽ sơ sài với “hai con mắt gà gà, nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, mặt thì thô kệch, thân hình “vập vạp”. Không những vậy đến nơi ở của anh thì cành dong dấp cổng, tấm phên vách che nhà, mảnh vườn lổn nhổn là cỏ dại. Hơn hết, Tràng lại là dân ngụ cư, một loại người mà lúc bấy giờ bị ruồng bỏ như một thứ cỏ rác của hương thôn. Rõ ràng, trong hoàn cảnh ấy Tràng chỉ có thể cùng mẹ già nương tựa nhau qua nạn đói mà khó có thể lấy một cô vợ.

Mang ngoại hình thô kệch, xấu xí nhưng Tràng có trái tim nhân hậu, phóng khoáng. Bản thân dù đói nhưng không ngần ngại bỏ tiền mời người đàn bà hai bát bánh đúc. Anh vui vẻ đưa ba câu hò trêu chọc mà cô Thị sẵn sàng theo về làm vợ. Tràng có vợ, như một anh chàng tốt số đào hoa, chỉ buông đôi lời tán tỉnh mà đã có cô nàng vội vã theo không. Giữa cảnh trời đất tối sầm vì đói khát, những ngày nghèo đói, hai thân phận bọt bèo đã đạt đến với nhau vì khát vọng hạnh phúc lứa đôi, vì mong hơi ấm gia đình. Dẫn người vợ nhặt về nhà, Tràng ngổn ngang những suy nghĩ thời buổi này còn đèo bòng, không biết nuôi nổi không rồi lại tặc lưỡi cho qua và gương mặt hiện rõ niềm vui. Trong tác phẩm, hơn một lần nhà văn nói về hạnh phúc, nụ cười của Tràng từ e lệ cười tủm tỉm đến bật cười đầy thỏa mãn, khi thì hai mắt sáng lên lấp lánh, có lúc mặt vênh lên tự đắc với mình. Dường như anh quên hết cảnh sống ê chề hàng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang rình rập.

Từ khi có vợ, Tràng nhận ra trách nhiệm của bản thân với gia đình. Anh biết chăm lo cho đêm tân hôn có chút dầu đèn cho sáng sủa để hạnh phúc không tối xùm trong hoàn cảnh bi đát. Ta thấy Tràng hết sức trân trọng hạnh phúc của mình. Đặc biệt trong buổi sáng đầu tiên khi đã nên vợ nên chồng, nhìn người vợ mới quét dọn sân nhà, Tràng cảm thấy ngập tràn niềm yêu thương và thấy bản thân như “lớn hẳn”, cũng như trách nhiệm cùng lớn dần lên.

Trong bữa cơm đầu tiên, Tràng nghe chuyện vui mẹ kể về tương lai, biết được việc nhân dân phá kho thóc Nhật và khi ấy hình ảnh lá cờ đỏ bỗng phấp phới trong óc Tràng. Đây không phải một ước mơ viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà nó cơ sở hiện thực, chính nhà văn đã nhìn thấy mà mở ra cho nhân vật của mình một hướng đi. Rõ ràng, Tràng đã có được hạnh phúc gia đình, có hơi ấm của tình thương. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.

Tràng cũng chính là chân dung của những người lao động sống trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Họ nghèo mà không hèn, nghèo bạc chứ không nghèo tình. Họ luôn sống với nhau bằng chữ “tình”, bằng chân thành, bằng yêu thương, san sẻ và đùm bọc. Con người là biểu trưng của hy vọng, lạc quan, hướng về ánh sáng, nhìn đến tương lai và tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.

Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 3

Văn là đời. Chuyện văn là chuyện đời. Qua một cảnh ngộ, một tình huống, một nỗi lòng của nhân vật, nhà văn muốn mang đến cho bạn đọc những vấn đề nhân sinh. “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm như thế. Tất cả những gì nhà văn muốn gửi gắm có chăng đều được sáng ngời qua nhân vật Tràng- một gã nông dân nghèo, thô kệch nhưng nhân hậu và luôn giàu khát khao sống.

Tôi nhớ nhà thơ Buy-phông ở đâu đó từ nhận định: “Phong cách chính là người”. quả thật vậy. Kim Lân là con người mang đậm cốt cách dân tộc. Đó là lí do vì sao văn ông luôn chan chứa một mùi quê hương, giản dị, hồn hậu, dân dã như chính cuộc đời bụi bặm hàng ngày của những người dân thuần phác. Tô Hoài cũng từng nhận xét Kim Lân là “nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu, nguyên thủy của làng quê Việt Nam”. Với tư cách là một nhà văn, ông không chen lấn ai và cũng không phải đỏ mặt với bất kỳ người nào. Kim Lân giống như một loại đồ cổ quý hiếm cất giữ trong đó nhiều bụi vàng văn hoá thẳm sâu của nền văn minh sông Hồng.Và thực tế, các tác phẩm của ông đã minh chứng rõ nét nhất cho điều đó.

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn xuất sắc có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám, nhưng bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), tác giả dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn. Ta đã từng bắt gặp một ông Hai trong “Làng”, một con người đậm chất “Kim Lân”, đậm chất làng quê. Nhân vật Tràng trong “Vợ nhặt” cũng là một con người như thế.

Có thể nói, Kim Lân đã rất tài tình khi “đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết” (Nguyễn Đăng Mạnh). Bối cảnh là một xóm ngụ cư những năm nạn đói năm 1945. Khi mà cái chết hiện lên thành hình những người chết “nằm còng queo, nằm ngổn ngang, đi lại dật dờ”, cái chết vẫn lên thành mùi “ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác người. mùi khét lẹt khi đốt đống rấm”. Cái chết hiện hình trong cả những âm thanh người hờ khóc tỉ tê, tiếng quạ trên cành cây gạo… Thậm chí là trong cả màu “xanh xám”, gợi cái cảm giác “heo hút, ngăn ngắt”, lạnh lẽo trong cảm nhận của mỗi người. Đặc biệt hơn cả là cảm quan hiện thực sắc sảo của nhà văn khi miêu tả “những người sống đi lại dật dờ như những bóng ma”. Ta thấy ở đó rùng rợn một bức tranh mà ranh giới giữa sự sống và cái chết vô cùng mỏng manh, cõi âm nhập nhòa trong cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ.

Giữa cái nền ấy xuất hiện anh cu Tràng. Như bao nhân vật khác trong truyện ngắn Kim Lân, Tràng là một gã nông dân “khố rách áo ôm”. Hắn sống với mẹ già trong một “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Đã nghèo, nhưng bên trong nhà còn bừa bãi, lộn xộn: một tấm phên rách, những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, mấy cái quần rách như tổ đỉa vắt khươm mươi niên, cái ang nước khô cong, đống rác mùn không buồn quét… Kim Lân đã thật tài tình khi chọn lọc một loạt những chi tiết đắt giá làm nổi bật tình cảnh éo le nhà Tràng, chắt chiu từng “hạt bụi vàng” làm nên “bông hồng vàng” danh giá.

Tràng không có người yêu, nói một cách hóm hỉnh, Tràng “ế vợ”. Không chỉ bởi nhà hắn nghèo, cái đáng nói ở chỗ hắn là một gã ngờ nghệch, thô kệch và hết sức xấu xí. “Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, quai hàm bạnh ra, cái đầu trọc nhẵn cứ chúi về phía trước”. Đã vậy, hắn còn hay lẩm bẩm một mình. Cuộc đời của một người đàn ông còn gì éo le hơn thế? Nam Cao cũng từng gửi nỗi niềm tâm sự ấy trong lời nói của Chí Phèo, giãi bày nỗi bất hạnh của giới trượng phu: “Tỉnh dậy, hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Đói rét, ốm đau và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau” (Chí Phèo).

Tôi nhớ Thạch Lam từng nói: Cái đẹp nằm trong cuộc sống, “cái đẹp len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, cái đẹp tiềm tàng che lấp sự vật”. Và quả thật như vậy. Bề ngoài đói rách, khó ưa không có nghĩa là tâm hồn héo úa. Đến người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn” như Thị Nở còn có lúc động lòng thương đối với một con quỷ mất hết tính người, huống chi Tràng? Và ta nhận thấy khuất lấp đằng sau cái vẻ ngờ nghệch, thô kệch của hắn là một trái tim nóng bỏng yêu thương, một tấm lòng nhân hậu vô bờ cho người, cho đời.

Sở dĩ tôi có thể chắc chắn được như thế là bởi giữa cái năm “đói mòn đói mỏi” ấy (Bằng Việt), đến cái ăn cái mặc của mình Tràng còn không lo được, nhưng hắn lại sẵn sàng dang rộng đôi bàn tay của mình để cưu mang, giúp đỡ một người phụ nữ hoàn toàn xa lạ, lại thêm cái tính “Chao chát, cong cớn, chỏng lỏn”. Nói một cách công bằng, Tràng không hề có chủ ý muốn cưới người “vợ nhặt”, tất cả chỉ là bông đùa. Một lời mời chào xã giao (“muốn ăn cơm trắng mấy giò này, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!), một lời hứa hẹn xuông, một lời rủ rê “chưa chính thức”. Thế là có vợ thật.

Ban đầu hắn xông xênh bỏ hẳn tiền túi ra mua một chập bốn bát bánh đúc cho người đàn bà khốn khổ kia. Rồi từ một câu nói tầm phơ tầm phào: “này đùa chứ có về ở với tớ một nhà cho vui”. Ấy vậy mà người “vợ nhặt” đồng ý thật. Hắn cũng đã thấy “chợn” bởi hắn lo sợ cho tương lai, đến bản thân mình còn không nuôi nổi mình huống chi cưu mang người khác? Tôi nghĩ, nếu lúc này gã đàn ông kia bỏ mặc người “vợ nhặt” thì cũng là dễ hiểu. Nhưng tình người trong gã thì chắc mất mát đi nhiều lắm, và Tràng cũng chẳng khác một thứ “bèo bọt” là bao. Nhưng rồi hắn đã “Chậc, kệ!”. Cái tặc lưỡi ấy nghe có vẻ bất cẩn, vô tâm và nguội lạnh quá. Nhưng thực chất đằng sau cái vẻ bỗ bã, tạm bợ ấy luôn nóng bỏng một tình yêu thương vô bờ. Đến nỗi, dẫu cho có biết bao đôi mắt đang nhìn chằm chằm vào đôi tình nhân mới “cưới”, họ rì rầm, bàn tán, chê bai: “chao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?”. Nhưng Tràng vẫn mặc kệ, giờ đây với hắn chỉ còn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”, hắn “tủm tỉm cười, hai mắt sáng lấp lánh”… Đó chính là niềm hạnh phúc vô bờ Tràng hằng ao ước bấy lâu. Có được nó, hắn sẵn sàng từ bỏ tất cả.

Nảy nở từ một trò đùa nhưng bên trong thực chất là một cái mầm nghiêm túc xây đắp hạnh phúc. Trên đường về, còn bao nhiêu tiền hắn dồn hết vào ba việc: đãi người vợ một bữa cơm, mua cho vợ cái thúng đựng mấy đồ lặt vặt và mua lấy ba hào dầu. Hai hành động đầu tiên nghe có vẻ thiết thực. Nhưng hành động thứ ba xem chừng xa xỉ, bởi lẽ không có đèn dầu, cuộc sống vẫn tốt, Hơn nữa, giữa cái thời buổi chết dần chết mòn vì đói ấy ai lại thèm để tâm đến chút ánh sáng nhỏ nhoi? Nhưng Tràng thì không thế, Dẫu cho có “nhặt” được vợ giữa đường giữa chợ như nhặt một cái rơm, cái rác nhưng không vì thế mà hắn thấy kinh thường người đàn bà đi kế bên. “Vợ mới vợ miếc thì cũng phải sớm sủa cái chứ chẳng nhẽ chưa tối mà đã rúc ngay vào?”. Ngọn đèn dầu chính là minh chứng cho trái tim nhân hậu, tấm lòng trân trọng của mình đối với một người đàn bà nghèo khổ. Ngọn đèn đã thắp lên tình yêu, hạnh phúc cho cặp vợ chồng son.

Đã là người, ai chẳng có bản năng ham sống? Nhưng tôi thấy ở Tràng, đó không chỉ là bản năng, đó còn là khát vọng. Khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Hành động nhặt vợ chính là một biểu hiện như thế. Không khao khát, làm sao hắn dám dẫn một người đàn bà không tên không tuổi về làm vợ? Nhất là ở buổi sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao bằng con sào, hưởng đêm trăng mật đầu tiên, lòng hắn thấy “êm ái, lửng lơ” lạ thường. Tràng thấy như không tin vào mắt mình. Ra là hắn đã có vợ đấy ư? Cái hạnh phúc nó tìm đến bất ngờ quá mà chưa kịp cảm nhận. Thấy mẹ và vợ đang cần cù quét tước, dọn dẹp nhà cửa, hắn thấy “thấm thía, cảm động”, như thêm “gắn bó với cái nhà hắn hơn”. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng” Ngôi nhà mà hắn đã từng gắn bó rất lâu, giờ đây đã thực sự trở thành tổ ấm nhờ bóng dáng người vợ hiền lành kia.

“Nhà”- chỉ một từ ấy thôi nhưng vô cùng ý nghĩa. “Nhà” không đồng nghĩa với “bình yên”, nhưng chúng ta ai cũng mong nó gắn với “bình yên” dẫu phải đánh đổi mọi thứ. Và Tràng cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Khao khát hạnh phúc lớn lao thúc giục hắn có ý nghĩa muốn làm một cái gì đó cho tổ ấm của mình. Quả thật, người vợ luôn có ý nghĩa đối với mỗi người chồng. Như một nhà vĩ nhân xưa từng nói: “Tôi sẵn sàng đánh đổi toàn bộ sự nghiệp nếu biết ở đâu đó trong ngôi nhà kia, có một người vợ luôn chờ tôi về ăn bữa tối”.

Khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc, và giờ đây Tràng đã có được. Ai bảo cứ Rô-mê-ô và Ju-li-ét mới là tình yêu? Dẫu cho người đàn ông kia có thô kệch, nghèo nàn, dẫu cho người đàn bà kia có rách nát “như tổ đỉa” thì đó vẫn là tình yêu. Họ vẫn lo lắng, quan tâm nhau, tôn trọng nhau đó thôi. Người có khao khát hạnh phúc xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Chính niềm khao khát cháy bỏng ấy đã xua tan đi mọi “u tối, hốc hác, bủng beo” của cuộc sống bụi bặm, xua đi cái lạnh lẽo của nạn đói tử thần năm 1945.

Xây dựng thành công nhân vật Tràng, Nhà văn đã vận dụng thành công đặc trưng thể loại truyện ngắn: Cốt truyện đơn giản nhưng nhiều chi tiết nghệ thuật sắc nét, đa nghĩa. Bút pháp miêu tả tâm lý tài tình, bắt nhạy từng chuyển biến trong tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ cá thể hóa cao độ mang đến sự giản dị, gần gũi của làng quê Việt Nam… Qua “vỏ mỏng” nhưng Kim Lân đã dựng được một lớp “lõi dày” cho tác phẩm. Hình tượng nhân vật Tràng chính là tấm chìa khóa mở ra tư tưởng của toàn bộ câu chuyện, nhà văn như muốn nói: Dẫu cho hoàn cảnh có đè nén, có “bèo bọt hóa” con người, nhưng con người vẫn không chịu làm kiếp bèo bọt mà vẫn kiên nhẫn làm Người. Những người đói, họ không nghĩ đến cái đói mà nghĩ đến cái sống. Xuất thân trong cái cảnh chết chóc nhưng sự sống vẫn kiên định chống chọi. “Sự sống chưa bao giờ chán nản” (Xuân Diệu), sự sống vươn lên trên cái chết, sự sống chiến thắng cái chết. Đó chính là thông điệp nhân sinh sâu sắc nhất mà Kim Lân muốn mang đến cho chúng ta qua nhân vật Tràng.

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên từng nói: “Thời gian có thể phủ bụi một số thứ, Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp”. Tôi cho rằng “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm như thế. Ra đời cách đây gần nửa thế kỉ nhưng sức sống của nó vẫn sẽ tồn tại đến muôn đời.

Cảm nhận nhân vật Tràng – Mẫu 4

Kim Lân nhà văn thường viết về người nông dân, truyện ngắn Vợ nhặt mang giá trị tư tưởng nhân đạo lớn dù cuộc sống nghèo khổ, cơ cực nhưng vẫn yêu thương đùm bọc nhau. Trong đó nhân vật Tràng là một trong những con người tốt bụng, nhân hậu.

Truyện Vợ nhặt được tác giả viết vào thời điểm khi mà nạn đói đang hoành hành dữ dội và cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Tràng và gia đình của mình cũng đang vật lộn để mưu sinh.

Trong truyện nhân vật Tràng được tác giả miêu tả với bề ngoài xấu xí, thô kệch, nghèo khó, rách rưới. Anh Tràng làm nghề kéo xe bò thuê. Tràng có đủ các yếu tố để trở nên ế vợ. Điều làm cả xóm bất ngờ đó chính là Tràng có vợ mà là vợ nhặt, ai cũng ngạc nhiên và xen lẫn lo lắng khi thời buổi này nuôi thêm người sẽ túng quẫn hơn.

Tràng và gặp người vợ của mình khi thấy cô ta sắp chết đói, với lòng nhân hậu Tràng cho ăn và quyết định cưu mang về làm vợ. Bắt đầu từ đây diễn biến tâm lý của nhân vật có nhiều thay đổi từ suy nghĩ ăn uống không có mà còn đèo bòng cho đến “chậc, kệ”, anh mong muốn một mái ấm gia đình nhiều hơn là lo sợ về cái đói trước mắt.Lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc của nhân vật này đã lấn áp nghịch cảnh đen tối.

Từ một kẻ xấu xí, thô kệch nay đã có vợ, Tràng có nhiều sự thay đổi đáng kể, “Tràng quên hết cảnh sống ê chè, tăm tối phía trước”, “trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”, sau khi cưới trong lòng thấy khác lạ nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, mẹ và nàng dâu cùng nhau làm lụng sự đoàn kết yêu thương nhau làm cậu ấm lòng. Giờ đây nhân vật Tràng thấu hiểu được giá trị của tình cảm gia đình trọn vẹn, Tràng càng yêu vợ và thấy có trách nhiệm với mẹ. Trong cảnh ngặt nghèo của cuộc sống những con người như Tràng vẫn hướng đến tình cảm gia đình, đùm bọc, che chở người thân vượt qua ranh giới sống chết.

Hình ảnh cảm động nhất có thể kể đến là cả nhà cùng ăn nồi cháo cám đắng ngắt, khó nuốt nhưng cả nhà vẫn vui vẻ ăn ngon lành. Tràng hiểu rõ tình cảnh hiện tại và bằng lòng với nghèo khổ để hướng đến hạnh phúc, sự nghèo đói không thể ngăn con người khát khao hạnh phúc.

Nhân vật Tràng được tác giả tập trung miêu tả trước trong và sau khi lấy vợ, diễn biến tâm lý thay đổi thể hiện nhân phẩm của nhân vật dù nghèo đói, bần hàn nhưng vẫn yêu thương,đùm bọc nhau và khát khao hạnh phúc gia đình như bao con người khác.

Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 5

Kim Lân viết văn từ trước Cách mạng, ông chuyên viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Lấy bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã cho ra đời tác phẩm “Vợ nhặt” để cho thấy sự cùng cực, nghèo đói cũng như niềm hạnh phúc bình dị của người nông dân đương thời. Trong đó, cách miêu tả tâm lý nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân hoàn thành được một nửa ý đồ của mình và gửi đến người đọc bao thế hệ những giá trị nhân văn sâu sắc, có sức sống trường tồn cùng thời gian và không gian.

Tràng là một trong hai nhân vật chính của truyện (ngoài Tràng còn vợ nhặt), anh chính là người “nhặt” được vợ. Qua nhân vật này, ta hiểu hơn về người nông dân nơi làng quê ngày xưa về những phẩm chất tốt đẹp và suy nghĩ giản đơn, chân chất vốn có.

Kim Lân miêu tả khiến Tràng như một gã đàn ông được đẽo gọt sơ sài: cặp mắt ti hí, quai hàm bạnh ra, lưng vậm vạp như lưng gấu, đầu trọc nhẵn lại vừa đi vừa nói lảm nhảm những điều chỉ có anh ta hiểu. Đã thế lại còn nghèo và là dân ngụ cư (ngày xưa dân ngụ cư thường bị khinh rẻ) nên không ai thèm để ý cả. Vậy mà trong nạn đói 1945 lại có người theo không về nhà. Kim Lân đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật trước biến cố ấy của cuộc đời.

Khi người đàn bà vợ nhặt biến lời nói đùa của Tràng thành lời nói thật “…có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.” thì Tràng lo lắng (chợn nghĩ) “thóc gạo đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” vì dẫu có vô tư đến mấy thì chàng cũng không thể vô lo. Xác chết đầy đường, Tràng nuôi mình và mẹ đã khó, nay thêm người là thêm một miệng ăn. Nhưng rồi Tràng lại tặc lưỡi:”Chậc, kệ!” rồi quyết định dắt người đàn bà về, đó chính là khao khát về một gia đình hạnh phúc cách cháy bỏng của Tràng.

Trên đường dắt vợ về nhà, Tràng tỏ ra khoái chí lắm vì vừa có vợ cách nhưng không, lại vừa nhận được cái nhìn ngạc nhiên lẫn ngưỡng mộ của bao nhiêu người hàng xóm, anh “tủm tỉm cười” còn đôi mắt thì “sáng lên lấp lánh”. Tác giả mượn điểm nhìn là người dân xóm ngụ cư vì chỉ có họ mới phát hiện được sự khác lạ hôm nay của Tràng, mọi hôm hắn về có một mình nhưng hôm nay lại dắt thêm một người đàn bà khác về chung.

Mạch truyện “Vợ nhặt” là một chuỗi ngạc nhiên, khi Tràng dắt vợ về thì cả xóm ngạc nhiên, tiếp đó là bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên đến mức không tin nổi vào mắt mình. Song đáng nói hơn cả là Tràng, người trong cuộc mà không khỏi ngạc nhiên, dắt vợ về rồi mà vẫn còn “đứng tây ngây giữa nhà một lúc”, đến sáng hôm sau vẫn còn “ngỡ ngàng”.

Khi đã có vợ và một gia đình thực thụ thì Tràng được sống trong tâm trạng lâng lâng sảng khoái như từ giấc mơ đi ra. Mái ấm gia đình đã nhen lên trong Tràng khát vọng tốt đẹp của con người: sống có trách nhiệm hơn với gia đình, nghiêm túc như một người đàn ông thực thụ, một người chủ gia đình.

Bằng cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ nhưng hợp lý, nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo và sử dụng khẩu ngữ trong truyện, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật Tràng để thể hiện chất riêng của mình.

Nảy sinh trên mảnh đất chết chóc nhưng sự sống không bao giờ bị tuyệt diệt, vẫn vươn ra phía trước cách mạnh mẽ, Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Tô Hoài là bài ca về sự sống. Đó cũng là ý nghĩa nhân văn sâu sắc của truyện ngắn này. Thời gian có chảy trôi, vạn vật có đổi thay, nhưng những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ còn mãi với bạn đọc muôn đời, vượt qua mọi quy luật băng hoại của tạo hóa. Truyện ngắn này đã làm được điều đó và cũng chính vì lẽ đó mà chúng ta, bạn đọc ngày hôm nay, vẫn không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đón đọc những đứa con tinh thần của người truyền lửa – Tô Hoài.