Vì sao quyền định đoạt là quyền quan trọng nhất
03:55 | 14-03-2017 Show
Trong ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền nào quan trọng nhất? Quyền của người sở hữu quyền nào là tối cao? Tóm tắt câu hỏi: Vậy trong 3 quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt thì quyền nào quan trọng nhất? Luật sư tư vấn: Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT PHƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT PHƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau: Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý phản ánh các quan hệ sở hữu trong một chế độ nhất định, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ sở hữu trong xã hội. Về nội dung, quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản của chủ thể sở hữu hặc người không phải chủ sở hữu nhưng được ủy quyền đối với tài sản. Trong đó: - Quyền chiếm hữu: Theo Điều 182 Bộ luật dân sự 2005: quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản. Tùy vào những trường hợp cụ thể mà có thể chia quyền chiếm hữu ra làm 2 trường hợp: người chiến hữu đồng thời là người sở hữu tài sản hoặc trường hợp người chiếm hữu không phải chủ sở hữu của tài sản. Và trong các trường hợp cụ thể thì quyền và nghĩa vụ của chủ thể đưuọc quy định tại Mục I Chueong XII Bộ luật dân sự 2005. - Quyền sử dụng: Điều 192 Bộ luật dân sự 2005 quy định: Quyền sử dụng tài sản là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lời, cổ tức từ tài sản..Cũng trong những trường hợp cụ thể mà chia ra quyền sử dụng tài sản đối với chủ sở hữu hoặc quyền sở hữu đối với người không phải chủ sở hữu tài sản. Như vậy, sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu hoàn toàn có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo cách thức và mục đích sử dụng tài sản theo ý chí của mình: sử dụng hoặc không sử dụng tài sản, trực tiếp khai thác công dụng tự nhiên của tài sản hoặc để cho người khác sử dụng thông qua các giao dịch dân sự như hợp đồng cho thuê, cho mượn. - Quyền định đoạt: Theo Điều 195 Bộ luật dân sự 2005 quy định: quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản (mua, bán, chuyển quyền sử dụng...). Đây cũng là một trong những quyền quan rọng mang tính chất quyết dịnh về sự tồn tại hay không của tài sản, khẳng định quyền sơ hữu hay không của chủ thể và cũng có khả năng quyết định tài sản. Quyền định đoạt không có ý nghĩa tuyệt đối mà trong những trường hợp cụ thể, quyên này vẫn có sự hạn chế nhất định: >>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 08.2262.3399 Điều 199 Bộ luật dân sự 2005: 1. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do pháp luật quy định. 2. Khi tài sản đem bán là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua. Trong trường hợp pháp nhân, cá nhân, chủ thể khác có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó. Như vậy, Bộ luật dân sự 2005 không quy định trong ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền nào là quan trọng nhất. Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt là ba quyền khác nhau và không tách rời nhau trong suốt quá trình thực hiện quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản. Do đó, không thể khẳng định quyền nào là quan trọng nhất trong ba quyền, cả ba quyền cùng được thực hiện mới đảm bảo lợi ích cho chủ sở hữu. Trong các quyền sở hữu, quyền nào là quan trọng nhất? Vì sao? ⇒ quyền định đoạt là quan trọng nhất vì quyền định đoạt là quyền quyết định đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình như là mua bán , cho , tặng để lại thừa kế hoặc vứt bỏ
Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit.Morbi adipiscing gravdio, sit amet suscipit risus ultrices eu.Fusce viverra neque at purus laoreet consequa.Vivamus vulputate posuere nisl quis consequat. Create an account Mục lục bài viết
Tại Điều 192 Bộ luật dân sự 2015: "Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản." Xét dưới góc độ pháp lý thì quyền định đoạt là quyền quan trọng nhất của chủ sở hữu đối với tài sản. Quyền định đoạt được định nghĩa theo hai khía cạnh: - Định đoạt số phận thực tế của tài sản: Tức là dùng các hành vi tác động đến tài sản khiến cho chúng không còn tồn tại trên thực tế. Ví dụ Chủ sở hữu tiêu dùng hết các tài sản có tính tiêu hao như: ăn uống các đồ lương thực, thực phẩm; dùng hết các đồ mỹ phẩm, dược phẩm... Hoặc chủ sở hữu có thể tiêu hủy tài sản khiến chúng biến mất như đốt tài sản, chặt phá chúng khiến cho tài sản không thể sử dụng được theo đúng tính năng, công dụng của mình; - Định đoạt số phận pháp lý của tài sản thông qua hai hình thức: chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác bằng việc xác lập các hợp đồng như bán, tặng cho, trao đổi tài sản cho người khác. Đây là những hợp đồng mà chuyển giao đồng thời cả ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cho người khác một cách vĩnh viễn; Theo Quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản cũng là một hình thức định đoạt số phận pháp lý của tài sản. tại Điều 239 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
Từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản cũng là một loại giao dịch dân sự - hành vi pháp lý đơn phương. Do vậy, việc từ bỏ quyền sở hữu tài sản chỉ có giá trị khi đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015: Điều kiện về chủ thể, mục đích, nội dung, ý chí, hình thức. Nếu một người bị bệnh tâm thần tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với chiếc xe máy thì việc từ bỏ đó cũng không có giá trị. Hoặc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản khi tài sản đó là nguồn gây ô nhiễm, độc hại cho môi trường, xã hội thì cũng không được phép...
Không phải trong mọi trường hợp chủ sở hữu đều có quyền định đoạt tài sản của mình. Để thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thì phái đáp ứng một số điều kiện được quy định tại Điều 193 Bộ luật dân sự 2015:
Điều luật trên quy định về điều kiện của việc thực hiện quyền định đoạt, đó là điều kiện về chủ thể (phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện), nội dung định đoạt (không trái quy định của pháp luật), về trình tự, thủ tục (phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục nếu pháp luật có quy định). - Về chủ thể: Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thực hiện. + Trường hợp phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật: Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. + Trường hợp chủ thể tự mình xác lập thực hiện giao dịch: Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. + Trường hợp phải do người đại diện, người giám hộ xác lập, thực hiện thay: Những giao dịch của người dưới 6 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. - Về nội dung định đoạt: “không trái quy định của pháp luật”, theo điểm c khoản 1 Điều 117 của Bộ luật dân sự có quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Các hành vi định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu cũng phải tuân thủ các điều kiện chung của giao dịch, tức là phải tuân theo Điều 117 Bộ luật dân sự. - Về trình tự, thủ tục định đoạt: phải tuân theo quy định của pháp luật.Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật dân sự thì đặt ra yêu cầu về hình thức của giao dịch dân sự. Những trình tự, thủ tục trong định đoạt tài sản mà pháp luật có quy định như: hợp đồng phải ký trước công chứng viên, có dấu của công chứng, phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tiến hành thủ tục trước bạ sang tên... Nếu chủ sở định đoạt đối với những tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở mà không tuân thủ những trình tự, thủ tục luật thì việc định đoạt đó sẽ không có giá trị. Ví dụ: Tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất:
Quyền định đoạt tài sản là một trong ba quyền năng của mà chủ thể sở hữu tài sản có. Khi là chủ sở hữu tài sản thì chủ thể có quyền định đoạt tài sản. Theo Điều 194 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau:
Điều luật trên đã liệt kê những hành vi mà chủ thể hữu có thể thực hiện để định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình, các loại hành vi này có mục đích chuyển quyền sở hữu đổi với tài sản gồm: - Chủ sở hữu xác hợp đồng như: bán, trao đổi, tặng cho, cho vay; - Chủ sở hữu thực hiện hành vi pháp lý đơn phương định đoạt tài sản như để thừa kế thông qua lập di chúc; từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản. Bên cạnh đó, chủ sở hữu còn có thể thực hiện các hành vi định đoạt bản thể vật chất của tài sản như tiêu dùng hay tiêu hủy tài sản.
Quyền định đoạt tài sản thuộc về chủ sở hữu tài sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp không phải chủ sở hữu những vẫn có quyền định đoạt tài sản. Điều 195 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau:
Như vậy, khi một chủ thể không phải chủ sở hữu nhưng lại có quyền định đoạt đối với tài sản khi có căn cứ: - Theo sự ủy quyền định đoạt của chủ sở hữu. - Theo quy định của pháp luật. Đối với căn cứ thứ nhất, người được ủy quyền nhân danh chủ sở hữu để xác lập các hợp đồng bán, tặng cho, trao đổi, cho vay vì lợi ích của chủ sở hữu. Theo quy định của Điều 55 Luật công chứng 2014 có quy định "Khi công chứng các hợp đồng ủy quyền, công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra kỹ hồ sơ, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc ủy quyền đó cho các bên tham gia." Đối với căn cứ thứ hai: Những người không phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật. Đó là các trường hợp: cơ quan thi hành án có quyền ký hợp đồng thuê bán đấu giá tài sản; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý những tài sản vi phạm quy định của pháp luật để sung công quỹ; bên giữ tài sản có quyền bán tài sản nếu những tài sản đó có nguy cơ hư hỏng, mất giá trị nếu không được xử lý ngay...
Điều 196 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
Điều luật này chỉ ra nguyên tắc định đoạt đối với tài sản, đó là chủ thể có toàn quyền định đoạt tài sản theo ý mình (như chọn người nhận chuyển giao quyền sở hữu, cách thức định đoạt...) và quyền này chỉ bị hạn chế trong trường hợp luật quy định. Để cụ thể hóa thì điều luật quy định hai trường hợp mà chủ thể phải dành ưu tiên mua cho những chủ thể này: - Nhà nước có quyền ưu tiên mua khi tài sản định đoạt là di tích, lịch sử văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa; - Các trường hợp khác mà chủ thể có quyền ưu tiên mua theo quy định của pháp luật như: Ví dụ Khoản 3 Điều 218 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:
Tương tự, Điều 126 của Luật nhà ở năm 2014 cũng quy định về quyền ưu tiên mua của các đồng sở hữu chung khi bán nhà thuộc sở hữu chung. Khoản 1 Điều 127 của Luật nhà ở năm 2014 cũng quy định về quyền ưu tiên mua của bên đang thuê nhà. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua Email : Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Trân trọng./. |