Thủ tục xét xử bắt buộc là gì
Phiên điều trần theo thủ tục pháp lý không phải là phiên xét xử. Đó là phiên điều trần “hành chính” và không diễn ra tại phòng xử án hay trước thẩm phán. ALJ là người được tiểu bang thuê phụ trách, người này am hiểu về luật giáo dục đặc biệt và sẽ xem xét công tâm tất cả các bằng chứng và đưa ra quyết định. [Cal. Ed. Code Sec. 56505.] Học thuyết pháp luật theo đó các hành vi của các bên đối nghịch được so sánh để xác định tỷ lệ trách nhiệm của mỗi bên, dẫn đến việc giảm khoản bồi hoàn của nguyên đơn tương ứng với mức độ lỗi của nguyên đơn. Xem thêm negligence cống hiến. Một văn bản tuyên bố sự kiện được xác nhận bằng lời tuyên thệ của đảng tạo ra nó, trước khi một công chứng viên hoặc sĩ quan có thẩm quyền quản lý tuyên thệ. Ví dụ, trong các vụ án hình sự, bản tuyên thệ thường được các nhân viên cảnh sát sử dụng để thuyết phục thẩm phán hoặc thẩm phán của tòa án ban hành lệnh bắt giữ hoặc tra cứu. Trong các vụ kiện dân sự, lời khai của các nhân chứng thường được sử dụng để hỗ trợ cho các chuyển động cho phán quyết tóm tắt. Các phiên tòa là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, nên có trình tự xét xử nghiêm ngặt. Theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, khi xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, Tòa án phải thực hiện theo các trình tự xét xử sơ thẩm sau đây: Trước khi khai mạc phiên tòa, Thư ký phiên tòa phải tiến hành các công việc sau đây:
Khi phiên toàn được bắt đầu, phiên tòa phải được tiến hành các thủ túc khai mạc phiên tòa như sau:
Trường hợp có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định theo thủ tục và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do. Khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa mà không thuộc trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định theo thủ tục và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do. Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan của người làm chứng, trước khi hỏi người làm chứng về những vấn đề mà họ biết có liên quan đến việc giải quyết vụ án, chủ tọa phiên tòa có thể quyết định những biện pháp cần thiết để những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Trường hợp lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định cách ly đương sự với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng. Thủ tục hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu được bắt đầu bằng việc chủ tọa phiên tòa hỏi đương sự về các vấn đề sau đây:
Sau khi hỏi đương sự về các vấn đề trên, Hội đồng xét xử phải xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong trường hợp việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử phải chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút. Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không; trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. Trình tự xét xử sơ thẩm cho phép các đượng sự và người đại diện, người bảo vệ cho họ được trình bầy và bảo vệ quyền lợi để tòa nghiên cứu và cân nhắc. Trường hợp có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình và các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì các đương sự trình bày theo trình tự sau đây:
Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Tại phiên tòa, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình. Theo quy định về trình tự xét xử sơ thẩm, sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa, thứ tự hỏi của từng người được thực hiện như sau:
Theo quy định về trình tự xét xử sơ thẩm, sau khi kết thúc việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa. Trình tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau:
Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ tự mình trình bày khi tranh luận. Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp. Cũng theo trình tự xét xử sơ thẩ, sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án. Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận. Theo quy định về trình tự xét xử sơ thẩm, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có một trong các căn cứ sau đây:
Nghị án là phần cực kỳ quan trọng trong trình tự xét xử sơ thẩm:
Sau phần nghị án thì tuyên án là phần tiếp theo trong trình tự xét xử sơ thẩm. Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án với sự có mặt của các đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức và cá nhân khởi kiện. Trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án hoặc vắng mặt trong trường hợp Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà người tham gia tố tụng vắng mặt và ngày, giờ và địa điểm tuyên án thì Hội đồng xét xử vẫn tuyên đọc bản án. Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án và có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo. Trường hợp Tòa án xét xử kín thì Hội đồng xét xử chỉ tuyên công khai phần mở đầu và phần quyết định của bản án. Trường hợp đương sự cần có người phiên dịch thì người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án hoặc phần mở đầu và phần quyết định của bản án được tuyên công khai. Nếu bạn cần tư vấn kỹ hơn về trình tự xét xử sơ thẩm, bạn có thể tham khảo các bài viết tại đây hãy gọi điện tới Tổng đài Tư vấn Pháp luật của Công ty luật Thái An, các luật sư và chuyên gia tư vấn sẽ giải đáp các thắc mắc của bạn một cách tốt nhất. Hoặc bạn có thể tham khảo dịch vụ luật sư bào chữa/luật sư tranh tụng uy tín của Luật Thái An tại LINK NÀY. |