Quần đảo Solomon thuộc nước nào

Khám phá Quần đảo Solomon

Quần đảo Solomon, từng nằm dưới sự bảo hộ của vương quốc Anh, hiện đang là một quốc gia có chủ quyền, nằm ở phía đông của Papua New Guinea. Quần đảo bao gồm một số đảo ở châu Đại Dương, với tổng diện tích đất lên đến 28.000 km2. Đảo Guadalcanal là nơi mà thủ đô của đất nước, Honiara, tọa lạc. Quần đảo là một phần của nhóm đảo Melanesian, bao gồm cả đảo Bougainville, nhưng không bao gồm các hòn đảo xa khơi, vốn thuộc quần đảo Santa Cruz. Quần đảo Solomon mang tên gọi hiện tại kể từ năm 1975.

Tham quan quần đảo Solomon

Đảo san hô Ontong Java – còn được gọi là Luangiua, là một trong những đảo san hô lớn nhất hành tinh. Nó đôi khi còn được gọi là Đảo san hô Lord Howe. Đảo có hình dáng giống như một chiếc giày, với hơn 122 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau với tổng diện tích lên đến 1.400 km2, trong đó, diện tích đất chiếm 12 km2.

Bảo tàng và Trung tâm Văn hóa Quốc gia – Nằm trong khu vực đảo Honiara, Bảo tàng & Trung tâm Văn hóa Quốc gia là nơi để du khách tìm hiểu thêm về nền văn hóa địa phương. Bảo tàng trưng bày hơn 2.000 hiện vật, bao gồm các mẫu vật gắn liền với lịch sử phát triển tự nhiên của khu vưc, các di vật có từ thế chiến thứ II, và các tài liệu khảo cổ học. Ngoài ra, phía sau bảo tàng là một số ngôi nhà truyền thống được phỏng theo đời sống văn hóa tại các tỉnh thành khách nhau của cả nước.

Hòn đảo Kolombangara - đôi khi còn được gọi là Kulambangara, là một hòn đảo trực thuộc hệ thống đảo New Georgia. Kolombangara có thể tạm dịch là 'chúa nước', bởi nó có đến 80 sông suối khác nhau. Kolombangara, ngoài ra, còn là một đảo núi lửa với phong cảnh tuyệt đẹp. Và vì thế, đảo Kolombangara là một địa điểm tuyệt vời cho những ai yêu thích các chuyến đi bộ đường dài và leo núi.

Hồ Te'Nggano - Đảo Rennell, còn được gọi là Mugaba, là đảo san hô san hô lớn thứ hai trên thế giới, bao gồm hồ Te'Nggano, hồ nước ngọt rộng lớn nhất Nam Thái Bình Dương. Hồ là một điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng ở quần đảo Solomon, và được biết đến bởi sự phong phú và đa dạng của các loài chim cũng như sinh vật biển. Các hồ nước tại đây được bao quanh bởi các rạn san hô cổ, các đảo san hô mới, và các đầm lầy. Ngoài ra, hồ còn được UNESCO công nhân là di sản thế giới.

Đảo Chim - Đảo chim tại Solomon là nơi có hàng trăm loài chim đầy màu sắc khác nhau hiện đang sinh sống. Chim cốc, chim boobies, và chim frigate làm tổ trong trên đảo quanh năm, khiến cho nơi đây trở thành địa điểm du lịch tuyệt vời cho những ai yêu thích thiên nhiên hoang dã.

Các phương tiện đi lại tại Quần đảo Solomon

Hãng hàng không Solomon Airlines cung cấp các chuyến bay nội địa, giúp việc đi lại giữa các đảo trở nên dễ dàng. Đi lại bằng tàu biển là một lựa chọn khác tuy mất nhiều thời gian hơn. Cuối cùng, bạn có thể sử dụng taxi hoặc xe buýt để đi lại bên trong từng đảo.

Làm thế nào để đến Quần đảo Solomon?

Du khách có thể bay đến quần đảo Solomon bằng cách đáp xuống sân bay quốc tế Honiara, từng được biết đến với tên gọi Henderson Field, nằm 8 km từ thủ đô Honiara. Sân bay đón tiếp các chuyến bay của các hãng hàng không như Air Niugini, Fiji Airways, Solomon Airlines, và Virgin Australia. Các hãng hàng không nêu trên, ngoài ra, còn có các chuyến bay đáp đến các đảo khác thuộc quần đảo, cũng như các các điểm đến như Brisbane (Úc), Nadi (Fiji), Cảng Moresby (Papua New Guinea), và Cảng Vila (Vanuatu). Mặc dù du khách đến từ một số quốc gia có thể được cấp thị thực tại chổ khi đến Quần đảo Solomon, du khách nhìn chung sẽ cần xin thị thực trước khi đến quần đảo Solomon.

Bạn còn chần chờ gì nữa mà không tìm và đặt ngay một chuyến bay và một phòng khách sạn thích hợp nhất với túi tiền của mình và khám phá Quần đảo Soloman? Skyscanner Việt Nam sẽ giúp bạn tìm, so sánh và đặt vé máy bay và khách sạn từ nhiều hãng hàng không và khách sạn trên thế giới. Hãy đặt vé đến Quần đảo Soloman ngay bây giờ!

Quần đảo Solomon (tiếng Anh: Solomon Islands) là một quốc đảo của người Melanesia, nằm ở phía Đông Papua New Guinea, bao gồm gần một ngàn đảo nhỏ trải dài trên một diện tích khoảng 28.400 km² (10.965 dặm vuông). Thủ đô của nơi đây là Honiara, tọa lạc trên đảo Guadalcanal.

Theo một số ý kiến khách quan, nhiều người cho rằng người dân đảo quốc này chính là hậu duệ của người Melanesia cổ, sinh sống từ mấy ngàn năm trước. Vào thập niên 1890, thực dân Anh đã thiết lập nền bảo hộ vùng đất này. Trong thời gian 1942-1945, đảo quốc này chịu tổn thất rất lớn trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra (Chiến dịch quần đảo Solomon), trong đó có Trận Guadalcanal gây thiệt hại nặng nề cho Solomon. Năm 1976, chính quyền tự trị ra đời. Hai năm sau đó, Solomon chính thức trở thành quốc gia độc lập và là một thành viên thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh.

Từ năm 1998, cuộc xung đột sắc tộc đã diễn ra trong sự bất lực của chính quyền. Đến tháng 6 năm 2003, lực lượng gìn giữ hòa bình đa quốc gia của Úc được gửi đến với "Sứ mạng giúp đỡ Quần đảo Solomon" (Regional Assistance Mission to the Solomon Islands - RAMSI) nhằm thiết lập lại nền hòa bình và giải tán các phiến quân sắc tộc vũ trang.

Ngày nay, Bắc Solomon chia thành hai vùng: Quần đảo Solomon độc lập và tỉnh Bougainville thuộc Papua New Guinea.

Lịch sử

Mọi người tin rằng những người định cư nói tiếng Papua đã bắt đầu tới đây khoảng năm 30,000 trước Công Nguyên. Những người nói ngôn ngữ Nam Đảo đã tới đây khoảng năm 4,000 trước Công Nguyên và cũng mang theo các yếu tố văn hoá như canoe có mái chèo. Trong khoảng giữa năm 1,200 và 800 trước Công Nguyên những tổ tiên của người Polynesia, người Lapita tới đây từ Quần đảo Bismarck với các đồ gốm mang đặc trưng của họ. Người Châu Âu đầu tiên khám phá quần đảo này là nhà hàng hải người Tây Ban Nha Álvaro de Mendaña de Neira, tới từ Peru năm 1568.

Các nhà truyền giáo bắt đầu tới Solomons hồi giữa thế kỷ XIX. Ban đầu họ không đạt được nhiều thành công, bởi sự "buôn bán nô lệ da đen" (sự tuyển mộ nhân công thường mang tính bạo lực cho những nông trang mía ở Queensland và Fiji) đã dẫn tới một loạt các cuộc trả thù và thảm sát. Những hậu quả của việc buôn bán nô lệ đã buộc Anh Quốc phải tuyên bố bảo hộ với phần nam Quần đảo Solomons năm 1893. Đây là cơ bản của sự Bảo hộ Anh với Quần đảo Solomon. Năm 1898 và 1899, thêm nhiều hòn đảo khác ở xa hơn được gộp vào khu vực bảo hộ. Năm 1900 phần còn lại của quần đảo, một vùng trước kia thuộc quyền tài phán của Đức, được chuyển giao cho chính quyền Anh ngoài các đảo Buka và Bougainville vẫn thuộc quyền quản lý của Đức như một phần của New Guinea thuộc Đức (cho tới khi chúng bị Australia chiếm năm 1914, sau khi Thế chiến I bùng phát). Tuy nhiên, thương mại truyền thống và sự giao lưu xã hội giữa vùng phía tây Quần đảo Solomon Islands là Mono và Alu (the Shortlands) và các xã hội truyền thống ở phía nam vẫn tiếp tục diễn ra bình thường. Dưới chế độ bảo hộ, các nhà truyền giáo đã định cư ở Solomons, cải đạo cho hầu hết dân cư sang Thiên chúa giáo. Đầu thế kỷ XX, nhiều công ty Anh và Australia bắt đầu trồng dừa trên phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức thấp bởi người dân trên đảo ít được hưởng lợi từ đó.

Thế chiến II

Với sự bùng phát của Thế chiến II, đa số người nông dân và thương nhân đã bỏ đi tới Australia, và hầu hết công việc trồng cấy phải ngừng lại. Một số trong những trận đánh căng thẳng nhất Thế chiến II đã xảy ra trên Quần đảo Solomon. Chiến dịch đáng chú ý nhất trong những chiến dịch của Đồng Minh chống lại các lực lượng Đế quốc Nhật được phát động ngày 7 tháng 8 năm 1942 với những cuộc ném bom và đổ bộ đồng thời vào đảo Florida tại Tulagi và Red Beach trên Guadalcanal. Trận Guadalcanal trở thành một chiến dịch quan trọng và đẫm máu tại Mặt trận Thái Bình Dương khi Đồng Minh bắt đầu đẩy lùi sự mở rộng của Nhật Bản. Hành động mang tính quan trọng trong chiến lược của cuộc chiến là những chiến dịch trinh sát tại các vị trí xa xôi, thường là tại các đảo thuộc quyền kiểm soát của Nhật, cung cấp các thông tin tình báo sớm về hoạt động của hải quân, quân đội và không quân Nhật trong chiến dịch. Thượng sĩ Jacob Vouza là người nổi tiếng vì đã từ chối tiết lộ thông tin của Đồng Minh khi bị quân đội Nhật bắt và tra tấn. Biuku Gasa và Eroni Kumana, những người dân sống trên đảo cũng đã được kênh National Geographic giới thiệu vì là những người đầu tiên tìm thấy John F. Kennedy khi ông bị đắm tàu cùng đội thuỷ thủ của PT-109. Họ có sáng kiến sử dụng một quả dừa để viết thông tin cầu cứu và mang đi bằng một chiếc canoe chèo tay, sau này khi đã trở thành Tổng thống Hoa Kỳ Kennedy đã giữ quả dừa đó trên bàn làm việc của ông.

Quần đảo Solomon là một trong những vùng quan trọng chiến lược ở Nam Thái Bình Dương và nơi đóng quân của Sư đoàn VMF-214 "Black Sheep" huyền thoại dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng "Pappy" Boyington. The Slot là một cái tên của eo biển New Georgia, khi nó được Tokyo Express sử dụng để cung cấp hậu cầu cho quân đội Nhật đồn trú trên Guadalcanal.

Phong trào độc lập

Sau khi Thế chiến II kết thúc, chính phủ thuộc địa Anh được trao trả. Thủ đô được chuyển từ Tulagi tới Honiara để tận dụng cơ sở hạ tầng do quân đội Mỹ bỏ lại. Một phong trào cách mạng được gọi là Maasina Ruru đã tổ chức và phát động một chiến dịch bất tuân dân sự và đình công lớn trên toàn bộ quần đảo. Rất nhiều người tham gia phong trào và các lãnh đạo bị bỏ tù cuối năm 1948. Trong suốt thập niên 1950, các nhóm thổ dân chống đối khác xuất hiện và biến mất mà không giành được sức mạnh. Năm 1960, một hội đồng cố vấn của người dân Quần đảo Solomon đã bị một hội đồng lập pháp đàn áp, và một hội đồng hành pháp được tạo lập như một cơ quan bảo trợ việc thiết lập chính sách. Hội đồng này dần được trao nhiều quyền lực. Năm 1974, một hiến pháp mới được thông qua lập ra một hệ thống chính phủ nghị viện dân chủ và các bộ trưởng. Giữa năm 1975, cái tên Quần đảo Solomon chính thức được đổi thành Nhà nước Bảo hộ Quần đảo Solomon thuộc Anh.

Ngày 2 tháng 1 năm 1976, Solomon trở thành nhà nước tự quản, và giành được độc lập ngày 7 tháng 7 năm 1978, chính phủ đầu tiên sau khi độc lập được bầu ra tháng 8 năm 1980. Một loạt các chính phủ đã được hình thành từ đó và vẫn chưa thành công trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Sau cuộc bầu cử Bartholomew Ulufa'alu năm 1997 tình hình chính trị của Solomon bắt đầu xấu đi. Việc quản lý đất nước giảm sút với sự bất lực của các cơ quan cảnh sát và chính phủ tới mức tình hình đã bị gọi là "căng thẳng".

Căng thẳng

Thường được gọi là căng thẳng hay căng thẳng sắc tộc, ban đầu cuộc bạo động dân sự chủ yếu là cuộc chiến giữa Phong trào Tự do Isatabu (cũng được gọi là Quân đội Cách mạng Guadalcanal) và Lực lượng Đại bàng Malaita (cũng như Lực lượng Đại bàng Marau). (Dù đa phần cuộc xung đột là giữa người Guales và người Malaitans, Kabutaulaka (2001) và Dinnen (2002) tranh cãi rằng cái mác 'xung đột sắc tộc' là sự đơn giản hoá). Về các chi tiết thảo luận về sự Căng thẳng, sem thêm Fraenkel (2004) và Moore (2004).

Cuối năm 1998, các chiến binh trên đảo Guadalcanal bắt đầu một chiến dịch đe doạ và bạo lực chống lại những người định cư Malaitan. Năm sau đó, hàng nghìn người Malaita đã phải bỏ chạy về Malaita hay thủ đô, Honiara (nơi, dù nằm trên đảo Guadalcanal, có dân cư chủ yếu là người Malaita và những người dân đảo Solomon từ các tỉnh khác). Năm 1999, Lực lượng Đại bàng Malaita (MEF) đã được thành lập để đối chọi.

Chính phủ cải cách của Bartholomew Ulufa'alu đã tìm cách đối phó với những rắc rối nảy sinh từ cuộc xung đột này. Cuối năm 1999, chính phủ đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp kéo dài trong bốn tháng. Cũng có một số nỗ lực tổ chức các buổi hoà giải nhưng không thành công. Bartholomew cũng đã yêu cầu sự trợ giúp từ phía Australia và New Zealand năm 1999 nhưng đề nghị này đã bị từ chối.

Tháng 6 năm 2000, Ulufa'alu bị các thành viên du kích của MEF bắt cóc vì họ cho rằng dù đang ở Malaitan, ông không hành động đủ để bảo vệ các lợi ích của họ. Sau đó Ulufa'alu đã từ chức để đổi lấy tự do. Manasseh Sogavare, người từng là Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ của Ulufa'alu's nhưng sau này đã gia nhập phe đối lập, được bầu làm Thủ tướng với tỷ lệ 23-21 trước Rev. Leslie Boseto. Tuy nhiên sự thắng cử của Sogavare đã ngay lập tức bị đặt nghi vấn khi sáu đại biểu (là người ủng hộ Boseto) không thể tới nghị viện tham dự cuộc bỏ phiếu (Moore 2004, n.5 trang 174).

Tháng 10 năm 2000, Thoả thuận Hoà bình Townsville, được ký kết giữa Lực lượng Đại bàng Malaita, các nhóm của IFM và Chính phủ Quần đảo Solomon. Ngay sau đó là thoả thuận Hoà bình Marau tháng 2 năm 2001, được ký kết giữa Lực lượng Đại bàng Marau, Phong trào Isatabu Tự do, Chính phủ Tỉnh Guadalcanal và Chính phủ Quần đảo Solomon. Tuy nhiên, một nhà lãnh đạo du kích quan trọng của Guale, Harold Keke, đã từ chối ký Thoả thuận, gây ra một sự chia rẽ với các nhóm Guale. Sau đó, các bên của Guale đồng ý với thoả thuận do Andrew Te'e lãnh đạo đã gia nhập với nhóm cảnh sát đa số người Malaitan để hình thành nên 'Lực lượng Phối hợp Hành động'. Trong hai năm tiếp theo cuộc xung đột chuyển sang Weathercoast của Guadalcanal khi những nỗ lực của Lực lượng Phối hợp Hành động nhằm bắt giữ Keke và nhóm của ông thất bại.

Cuộc bầu cử mới được tổ chức vào tháng 12 năm 2001 đưa Sir Allan Kemakeza lên nắm chức Thủ tướng với sự hỗ trợ của Đảng Liên minh Nhân dân của ông và của Hiệp hội các Thành viên Độc lập. Luật pháp và trật tự ngày càng mất hiệu lực khi bản chất của cuộc xung đột thay đổi bạo lực tiếp tục diễn ra tại Weathercoast trong khi các du kích ở Honiara ngày càng theo đuổi các hành động tội ác và tra tán. Bộ Tài chính thường phải được quân đội vũ trang bảo vệ khi thu tiền về. Tháng 12 năm 2002, Bộ trưởng Tài chính Laurie Chan từ chức sau khi bị buộc phải ký giấy này tại một trạm kiểm soát do một số chiến binh lập ra. Xung đột bùng phát ở Tỉnh Tây giữa những người địa phương và những người định cư Malaitan. Các thành viên phản bội của Quân đội Cách mạng Bougainville (BRA) đã được mời tới làm lực lượng bảo vệ nhưng cuối cùng lại gây…