Top các xét nghiệm đánh giá chức năng gan năm 2022

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Vũ Huy Bình - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng.

Xét nghiệm đánh giá chức năng gan là tên gọi chung của một số xét nghiệm cụ thể được thực hiện nhằm đánh giá hoạt động chức năng của gan. Xét nghiệm đánh giá chức năng gan là yếu tố không thể thiếu trong quá trình chẩn đoán và theo dõi điều trị các bệnh lý của gan.

Hiện có khá nhiều xét nghiệm khác nhau để đánh giá chức năng gan, và cùng một xét nghiệm có thể mang các tên gọi khác nhau. Các xét nghiệm đánh giá chức năng gan thường gặp bao gồm:

  • Xét nghiệm nồng độ alanine transaminase - ALT (tên khác là serum glutamic pyruvic transaminase - SGPT): Alanine transaminase là một loại enzyme tham gia vào quá trình bẻ gãy các chuỗi protein, và alanine transaminase được tìm thấy chủ yếu ở gan. Nồng độ cao alanine transaminase trong máu gợi ý rằng có sự tổn thương gan xảy ra.
  • Xét nghiệm nồng độ aspartate transaminase - AST (tên khác là serum glutamic oxaloacetic transaminase - SGOT): Aspartate transaminase là một loại enzyme khác được tìm thấy ở gan, và nếu nồng độ aspartate transaminase trong máu cao cũng là dấu hiệu của bệnh lí hoặc gợi ý thương tổn tại gan.

Top các xét nghiệm đánh giá chức năng gan năm 2022

Xét nghiệm AST

  • Xét nghiệm nồng độ alkaline phosphatase - ALP (xét nghiệm nồng độ phosphatase kiềm): Alkaline phosphatase là một loại enzyme hiện diện tại gan, ống mật và xương, do đó nồng độ alkaline phosphatase sẽ tăng khi tổn thương gan hoặc có bệnh lý về gan, khi tắc mật hoặc khi có bệnh lý về xương.
  • Xét nghiệm nồng độ albumin và protein toàn phần: Gan sản xuất ra hai loại protein chính là albumin và globulin (albumin chỉ được sản xuất từ gan, globulin còn được sản xuất từ cơ quan khác ngoài gan). Nồng độ của những protein vừa nêu trong máu thấp đồng nghĩa gan đã gặp vấn đề.
  • Xét nghiệm nồng độ bilirubin: Bilirubin là thành phần được giải phóng ra khi các tế bào hồng cầu bị phá hủy, và bình thường quá trình xử lý bilirubin sẽ được gan thực hiện. Nếu gan bị tổn thương, quá trình xử lý bilirubin không đảm bảo và gây ra hiện tượng hoàng đản (vàng da).
  • Xét nghiệm nồng độ gamma glutamyl transferase - GGT: Nồng độ gamma glutamyl transferase cao trong máu có thể là biểu hiện của tổn thương gan hoặc ống mật.

  • Xét nghiệm nồng độ lactate dehydrogenase - LD: Nồng độ lactate dehydrogenase (là một loại enzyme) tăng cao khi có tổn thương gan xảy ra, nhưng các tình trạng bệnh lí khác cũng có thể gây tăng nồng độ enzyme này.
  • Xét nghiệm thời gian prothrombin - PT: Đây là một xét nghiệm nhằm xác định thời gian đông máu. Nếu thời gian prothrombin kéo dài thì đây là một dấu hiệu của tổn thương gan, bởi gan là cơ quan sản xuất các yếu tố đông máu. Việc sử dụng các thuốc chống đông, chẳng hạn như warfarin (Coumadin) có thể làm tăng thời gian prothrombin.

Top các xét nghiệm đánh giá chức năng gan năm 2022

Sơ đồ xét nghiệm thời gian prothrombin - PT

Các xét nghiệm đánh giá chức năng gan cần được thực hiện để kiểm tra tình trạng của gan, phát hiện bệnh lý cũng như để xác định mức độ bệnh, theo dõi kết quả điều trị. Các dấu hiệu và triệu chứng gợi ý bệnh lý về gan thường gặp bao gồm:

  • Nước tiểu sẫm màu.
  • Phân nhạt màu.
  • Cảm giác chán ăn.
  • Bụng chướng.
  • Thay đổi tính tình.
  • Cảm giác ốm yếu, mệt mỏi.
  • Hoàng đản (vàng da, vàng củng mạc mắt).

Tuy nhiên thông thường các bệnh lý về gan ít khi biểu hiện các triệu chứng. Ngoài ra, các xét nghiệm đánh giá chức năng gan cũng được thực hiện đối với những người có nguy cơ cao mắc bệnh lý về gan, chẳng hạn như:

  • Người uống nhiều rượu, người lạm dụng rượu.
  • Có tiền sử gia đình mắc bệnh lý về gan.
  • Thừa cân béo phì, đặc biệt là khi có tình trạng đái tháo đường hoặc tăng huyết áp đi kèm.
  • Đang điều trị bằng các thuốc có thể ảnh hưởng tới gan.

Top các xét nghiệm đánh giá chức năng gan năm 2022

Người thừa cân nên xét nghiệm đánh giá chức năng gan

Trước khi thực hiện xét nghiệm đánh giá chức năng gan, người được xét nghiệm cần thông báo đầy đủ cho bác sĩ các loại dược phẩm bản thân đang sử dụng, bao gồm cả các sản phẩm không cần bác sĩ kê đơn.

Tất cả các xét nghiệm đánh giá chức năng gan được nêu ở trên đều là xét nghiệm máu, và chúng có thể được thực hiện một lần hoặc nhiều lần, tùy thuộc vào chỉ định của bác sĩ dựa trên tình huống lâm sàng cụ thể.

Kết quả xét nghiệm sẽ là bình thường nếu các giá trị của kết quả đều nằm trong giới hạn bình thường. Nếu kết quả xét nghiệm là bất thường, tùy theo khám lâm sàng và tình huống cụ thể, bác sĩ có thể chỉ định thêm một hoặc một số xét nghiệm, kĩ thuật cận lâm sàng để làm rõ những bất thường đang diễn ra. Bác sĩ sẽ giải thích cặn kẽ để người bệnh hiểu về tình trạng của bản thân.

Các xét nghiệm đánh giá chức năng gan có vai trò quan trọng, giúp các bác sĩ có thể đánh giá sức khỏe của gan cho người bệnh, từ đó đưa ra kết quả điều trị tốt nhất.

Top các xét nghiệm đánh giá chức năng gan năm 2022

Khám bệnh lý gan mật tại Vinmec cùng với các chuyên gia đầu ngành

Hiện nay, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng đang triển khai gói sàng lọc gan mật bao gồm đầy đủ tất cả các xét nghiệm đánh giá chức năng gan, mang đến sự yên tâm và kết quả chính xác cho quý khách hàng. Khi có những dấu hiệu rối loạn gan hoặc có tiền sử bệnh lý gan mật hoặc ngay cả khi không hề có triệu chứng nào thì việc chủ động xét nghiệm chức năng gan là việc làm cần thiết để bảo vệ sức khỏe của mình.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

Bài viết tham khảo nguồn: webmd.com, mayoclinic.org

Men gan cao có triệu chứng gì?

XEM THÊM:

Các xét nghiệm nói chung có hiệu quả đối với những trường hợp sau đây:

  • Phát hiện rối loạn chức năng gan

  • Đánh giá mức độ nặng của tổn thương gan

  • Theo dõi tiến triển bệnh gan và đáp ứng với điều trị

Nhiều xét nghiệm sinh hóa gan được gọi là xét nghiệm chức năng gan. Các xét nghiệm này đo lường các enzyme gan được giải phóng vào máu (ví dụ, giải phóng các aminotransferase từ các tế bào gan bị tổn thương hoặc phosphatase kiềm do tắc nghẽn) hoặc đánh giá chức năng gan bằng cách đánh giá bài tiết gan mật (ví dụ bilirubin). Các xét nghiệm khác được sử dụng để đánh giá khả năng tổng hợp của gan (ví dụ, thời gian prothrombin [PT], thường được báo cáo là tỷ lệ bình thường hóa quốc tế [INR]; albumin).

Một vài xét nghiệm mang tính chẩn đoán; bao gồm:

Top các xét nghiệm đánh giá chức năng gan năm 2022

Alanine aminotransferase (ALT) và aspartate aminotransferase (AST) bị giải phóng từ các tế bào bị tổn thương; do đó, các enzym này là các chỉ số nhạy với tổn thương gan. Các giá trị cao rõ rệt (> 500 IU/L; bình thường, 40 IU/L), cho thấy hoại tử tế bào hoặc tổn thương cấp tính, thường là kết quả của tình trạng sau:

Tăng cao dai dẳng trong nhiều ngày hoặc, trong nhiều tuần trong viêm gan virut. Mức độ có thể không phản ánh chính xác mức độ tổn thương gan. Các phép đo nối tiếp phản ánh mức độ nghiêm trọng và tiên lượng tốt hơn so với phép đo đơn lẻ. Giảm về mức bình thường cho thấy sự hồi phục trừ khi đi kèm với sự gia tăng bilirubin và thời gian prothrombin (PT) hoặc tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế (INR, có thể cho thấy viêm gan tối cấp Viêm gan thể tối cấp còn gọi là suy gan tối cấp). Viêm gan cấp làm giảm số tế bào gan bài tiết enzym.

Nồng độ Aminotransferase cũng có thể cao rõ rệt trong trường hợp sau:

Tăng nhẹ (< 300 IU/L) không đặc hiệu và thường thấy ở các rối loạn như

Aminotransferase có thể bình thường trong một số rối loạn gan nhất định, chẳng hạn như

Tăng ALT phần nào đặc hiệu đối với tổn thương gan. Vì AST có trong tim, cơ xương, thận, hồng cầu và tuyến tụy, nên AST tăng lên có thể do tiêu cơ vân Tiêu cơ vân hoặc tổn thương các cơ quan này. Trong hầu hết các bệnh gan, tỷ lệ AST với ALT là < 1. Tuy nhiên, bệnh gan do rượu đặc trưng với tỷ lệ > 2 vì pyridoxal-5'-phosphate thường bị thiếu ở bệnh nhân rối loạn sử dụng rượu; nó cần thiết cho sự tổng hợp ALT nhưng ít cần thiết cho sự tổng hợp AST. Sự thiếu hụt này cũng giải thích tại sao ALT và AST lại thấp (< 300 IU/L) ở bệnh nhân nghiện này.

LDH, thường bao gồm trong các xét nghiệm thường quy, có mặt trong nhiều mô khác và không nhạy hay đặc hiệu cho tổn thương tế bào ở gan. LDH thường tăng cao trong bệnh viêm gan do thiếu máu cục bộ/thiếu oxy và ung thư xâm nhập sâu rộng vào gan.

Bilirubin, sắc tố mật, được sản xuất từ sự thoái hóa protein heme, chủ yếu từ heme của hemoglobin trong hồng cầu. Bilirubin không liên hợp (tự do) không hòa tan trong nước và do đó không thể bài tiết qua nước tiểu; Hầu hết bilirubin không liên hợp gắn với albumin trong huyết tương. Bilirubin được kết hợp trong gan với axit glucuronic để hình thành nên bilirubin liên hợp dễ tan trong nước hơn. Bilirubin liên hợp sau đó được bài tiết qua đường mật vào tá tràng, tại đó được chuyển hóa thành urobilinogens (một số được hấp thu lại và tái phân bố vào đường mật), sau đó là urobilin có màu da cam (hầu hết được thải ra phân). Những sắc tố mật này làm cho phân có màu điển hình của nó.

Tăng bilirubin máu là kết quả của một hoặc nhiều trường hợp sau đây:

  • Giảm hấp thu và kết hợp bilirubin trong gan

  • Giảm bài tiết mật (xem Vàng da Vàng da

    Top các xét nghiệm đánh giá chức năng gan năm 2022
    )

Bilirubin niệu phản ánh sự hiện diện của bilirubin liên hợp trong nước tiểu; bilirubin trong nước tiểu vì nồng độ trong máu tăng đáng kể, biểu hiện bệnh ở mức độ nặng. Bilirubin không liên hợp không tan trong nước và gắn vào albumin và do đó không thể bài tiết qua nước tiểu. Bilirubin niệu có thể được tự phát hiện với các que thử nước tiểu, gặp trong viêm gan vi rút cấp tính Tổng quan về Viêm Gan Vi-rút Cấp hoặc các rối loạn gan mật khác, ngay cả trước khi triệu chứng vàng da xuất hiện. Tuy nhiên, độ chính xác trong chẩn đoán dựa vào các xét nghiệm nước tiểu không cao. Kết quả có thể là âm tính giả khi mẫu nước tiểu được lưu trữ trong một thời gian dài, vitamin C đã bị tiêu hóa, hoặc nước tiểu có nitrat (ví dụ do nhiễm trùng đường tiểu) Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) . Tương tự, xét nghiệm tăng urobilinogen không đặc hiệu cũng không nhạy.

Tăng enzym tế bào gan cho thấy có tình trạng ứ mật. Kết quả có thể không đặc hiệu vì phosphatase kiềm bao gồm một số isoenzyme và có phân bố ngoài gan rộng rãi (ví dụ như trong rau thai, ruột non, bạch cầu, thận, và đặc biệt là xương).

Nồng độ phosphatase kiềm tăng 4 lần bình thường trong 1 đến 2 ngày sau khi bắt đầu tắc nghẽn đường mật, bất kể vị trí tắc nghẽn nào. Mức độ tăng có thể duy trì ở mức cao trong vài ngày sau khi tình trạng tắc nghẽn được giải quyết vì thời gian bán hủy của phosphatase kiềm là khoảng 7 ngày. Tăng gấp 3 lần bình thường xảy ra trong nhiều chứng bệnh về gan, bao gồm

Nồng độ cao đơn độc (khi các kết quả xét nghiệm gan khác là bình thường) có thể kèm theo

Nồng độ cao đơn độc cũng xuất hiện khi không có bất kỳ bệnh lý gan mật nào, như:

Định lượng transpeptidase gamma-glutamyl hoặc 5-nucleotidase (đặc hiệu hơn đối với gan) có thể giúp phân biệt tổn thương gan với các tổn thương khác gây tăng phosphatase kiềm tốt hơn chỉ đánh giá đơn độc nồng độ phosphatase kiềm, vì xét nghiệm này yêu cầu kỹ thuật khó. Ngoài ra, ở những người cao tuổi không triệu chứng, sự gia tăng nồng độ phosphatase kiềm thường xuất phát từ xương (ví dụ như ở bệnh Paget) và không cần phải đánh giá thêm về tổn thương gan.

Tăng nồng độ của enzym này nhạy ngang với alkaline phosphatase để phát hiện bệnh ứ mật và tắc nghẽn mật, nhưng đặc hiệu hơn, hầu như luôn gặp trong rối loạn chức năng gan mật. Bởi vì nồng độ phosphatase kiềm và 5-nucleotidase không phải lúc nào cũng tương đồng, có thể một cái bình thường, một cái tăng.

Nồng độ enzym này tăng trong rối loạn chức năng gan, đặc biệt là bệnh ứ mật, và tương quan lỏng lẻo với nồng độ alkaline phosphatase và 5-nucleotidase. Nồng độ không tăng do tổn thương xương, trẻ em, hoặc khi mang thai. Tuy nhiên, rượu và các loại thuốc nhất định (ví dụ, một số thuốc chống co giật, warfarin) có thể gây ra giảm hoạt tính enzym microsom ở gan (cytochrome P-450), tăng nồng độ GGT rõ rệt và do đó làm giảm tính đặc hiệu của nó.

PT có thể được thể hiện theo thời gian (giây) hoặc, tốt hơn, là tỷ lệ INR (INR - xem Xét nghiệm Xét nghiệm ). INR chính xác hơn PT để theo dõi tình trạng đông máu. PT hoặc INR là một phép đo giá trị về khả năng của gan trong tổng hợp fibrinogen và các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K: các yếu tố II (prothrombin), V, II, IX và X. Sự thay đổi có thể xảy ra nhanh chóng bởi vì một số yếu tố đông máu liên quan có thời gian bán huỷ ngắn (ví dụ 6 giờ đối với yếu tố VII). Bất thường cho thấy rối loạn chức năng tế bào ở mức độ nghiêm trọng, một dấu hiệu đáng lo ngại về các rối loạn gan cấp. Trong các bệnh gan mạn tính, PT hoặc INR tăng trong đợt tiến triển. PT hoặc INR không tăng trong rối loạn chức năng tế bào ở mức độ nhẹ và thường bình thường trong xơ gan Xơ gan .

Tế bào gan tổng hợp hầu hết các protein huyết thanh, bao gồm alpha và beta globulin, albumin, và hầu hết các yếu tố đông máu (nhưng không phải là yếu tố VIII do nội bào mạch, hoặc gamma-globulin do tế bào B tạo ra). Tế bào gan cũng tổng hợp ra các protein có thể giúp chẩn đoán các rối loạn đặc hiệu:

Các protein này thường tăng lên khi có tổn thương (ví dụ viêm) ở các mô khác nhau, do đó có thể không phản ánh đặc hiệu các triệu chứng của bệnh gan.

Albumin huyết thanh thường giảm trong các rối loạn gan mạn tính do sự gia tăng thể tích phân bố (ví dụ, do cổ trướng Cổ chướng ), sự giảm tổng hợp gan, hoặc cả hai. Giá trị < 3 g/dL (< 30 g/L) cho thấy tổng hợp giảm, gặp trong những trường hợp sau đây:

Vì albumin có thời gian bán hủy khoảng 20 ngày, nồng độ huyết thanh mất vài tuần để tăng hoặc giảm.

Các hợp chất nitơ vào đại tràng (ví dụ như protein được ăn vào, urê được tiết ra) bị phân hủy bởi vi khuẩn cư trú, giải phóng amoniac. Amoniac sau đó được hấp thụ và vận chuyển qua tĩnh mạch cửa đến gan. Gan khỏe dễ dàng loại bỏ amoniac từ tĩnh mạch cửa và chuyển nó thành glutamine, được chuyển hóa bởi thận thành urê để được bài tiết. Ở những bệnh nhân có shunt cửa chủ và bệnh gan mạn tính, gan tổn thương không loại bỏ được amoniac từ đó xâm nhập vào hệ tuần hoàn, có thể gây bệnh não hệ thống (gan) Hội chứng não cửa chủ . Nồng độ amoniac tăng lên trong bệnh não gan, nhưng nồng độ có thể thấp hoặc cao giả tạo. Trong các bệnh lý gan tiến triển, những trường hợp sau có thể thấy tăng nồng độ amoniac:

Bởi vì mức độ amoniac tương quan kém với mức độ nghiêm trọng của bệnh não gan, mức độ này ít có giá trị trong theo dõi điều trị.

Trong suy gan cấp, nồng độ amoniac tăng cao do rối loạn chức năng tế bào gan cấp và/hoặc hoại tử, trái với shunt cửa chủ, và có thể là một chỉ số tiên lượng xấu.

Trong các bệnh gan mạn tính, globulin miễn dịch thường tăng lên. Tuy nhiên, sự tăng không đặc hiệu và thường không hữu ích lâm sàng. Mức độ tăng nhẹ trong viêm gan cấp, trung bình trong viêm gan mạn tính, và rõ rệt trong viêm gan tự miễn. Sự tăng globulin miễn dịch chỉ bổ sung được ít thông tin, mặc dù các globulin miễn dịch khác nhau thường rất cao ở những rối loạn khác nhau:

Các kháng thể dị thể này khi dương tính thường có nồng độ cao trong > 95% bệnh nhân bị viêm đường mật tiên phát. Đôi khi chúng cũng xuất hiện trong những trường hợp sau:

  • Các rối loạn tự miễn khác, như bệnh mô liên kết, nhược cơ, viêm tuyến giáp tự miễn, bệnh Addison, thiếu máu tan máu tự miễn

Các kháng thể khác có thể giúp chẩn đoán những trường hợp sau đây:

  • Viêm gan tự miễn: Các kháng thể kháng actin, các kháng thể kháng nhân (ANA) bắt màu huỳnh quang đồng nhất (khuếch tán), và các kháng thể kháng microsom gan-thận loại 1 (anti-LKM1) thường có mặt.

  • Viêm đường mật nguyên phát: Kháng thể kháng ti thể là chìa khóa để chẩn đoán.

  • Viêm xơ đường mật tiên phát Viêm xơ chai đường mật nguyên phát: kháng thể kháng tương bào bạch cầu đa nhân trung tính (p-ANCA) có thể giúp tăng thêm độ nghi ngờ.

Sự tăng đơn độc các kháng thể bất thường ở trên không bao giờ mang tính chẩn đoán và không khẳng định được bệnh lý nào.

AFP, một glycoprotein thường được tổng hợp bởi túi noãn hoàng trong phôi và sau đó là gan thai nhi, tăng ở trẻ sơ sinh và do đó tăng trong quá trình mang thai. AFP giảm nhanh chóng trong năm đầu tiên sau sinh, đạt đến các giá trị người lớn (bình thường, < 10 đến 20 ng/mL hoặc < 10 đến 20 mg/L tùy theo phòng thí nghiệm) vào lúc 1 tuổi. Sự tăng lên của AFP dù nhỏ đến mức nào đều cần phải cân nhắc đến ung thư tế bào gan Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). AFP huyết thanh thường tương quan với kích cỡ khối u, sự biệt hóa và sự di căn. Do các khối u nhỏ có thể có thể có nồng độ AFP thấp, nên AFP tăng cho thấy sự có mặt của HCC, đặc biệt khi khối u có đường kính > 3 cm. AFP cũng giúp dự đoán tiên lượng.

Tăng nhẹ AFP cũng xuất hiện trong viêm gan cấp và mạn tính, có thể do phản ánh tình trạng tái tạo gan; AFP thỉnh thoảng có thể tăng lên đến 500 ng/mL trong suy gan cấp Suy gan cấp . Nồng độ AFP cao có thể xảy ra trong một vài rối loạn khác (ví dụ: ung thư biểu mô phôi, u nguyên bào gan ở trẻ em, một số di căn gan do ung thư từ đường tiêu hóa và đường mật), nhưng những trường hợp này không phổ biến và thường có thể phân biệt dựa vào lâm sàng và mô bệnh học.

Độ nhạy, độ đặc hiệu, và nồng độ đỉnh của AFP ở bệnh nhân HCC thay đổi theo các vùng dân số khác nhau, phản ánh sự khác biệt về các yếu tố như tỷ lệ mắc bệnh viêm gan và sắc tộc. Ở những vùng có tỷ lệ viêm gan thấp (ví dụ Bắc Mỹ, Tây Âu), giá trị AFP bình thường là 20 ng/mL (20 mcg/L) có độ nhạy 39-64% và độ đặc hiệu 76-91%. Tuy nhiên, không phải tất cả các HCCs đều có AFP. Do đó, AFP không phải là xét nghiệm lý tưởng nhưng lại có vai trò trong việc phát hiện HCC và có thể dùng để theo dõi đánh giá hiệu quả điều trị. Nồng độ cao hơn bình thường (> 20 ng/mL [20 mcg/L]), đặc biệt là khi AFP tăng nhiều, khả năng cao là mắc HCC. Ở bệnh nhân xơ gan có khối và có AFP cao (ví dụ, > 200 ng/mL [200 mcg/L]) thì có giá trị dự đoán cao. Việc sử dụng kết hợp AFP và siêu âm hiện nay là cách sàng lọc tốt nhất.

  • Tuyên bố vị trí y tế của Hiệp hội Tiêu hóa Hoa Kỳ: Đánh giá các xét nghiệm hóa học gan. Tài liệu này trình bày các khuyến nghị chính thức của Hiệp hội Tiêu hóa Hoa Kỳ (American Gastroenterological Association, AGA) về Đánh giá các Xét nghiệm Hóa học Gan. Nó đã được phê duyệt bởi Ủy ban Thực hành lâm sàng vào ngày 3 tháng 3 năm 2002 và bởi Hội đồng Quản trị của AGA vào ngày 19 tháng 5 năm 2002.

  • Green RM, Flamm S: Đánh giá kỹ thuật của AGA về việc đánh giá các xét nghiệm hóa học gan. Gastroenterology 123(4):1367-1384, 2002.