Hầu hết các loại thuốc này đều được làm từ thảo mộc và nhìn qua thì rất khó phân biệt được cũng như không biết được thuốc nào tốt hơn. Bác sĩ Trần Danh Tài – Chủ tịch Hội Đông y Lâm Đồng cho biết, nói một cách đơn giản thuốc Bắc là thuốc được đưa từ phương Bắc [ý nói nước Trung Quốc] vào nước ta; còn thuốc Nam là thuốc được thu hái và chế biến tại nước ta [Việt Nam]. Nhưng thuốc tốt, nghĩa là phải có tác dụng chữa bệnh. Thuốc Bắc hay thuốc Nam dù đắt hay rẻ mà không có tác dụng chữa bệnh, gây nguy hại cho người bệnh đều không tốt. Ví dụ: Sâm Cao Ly [của Triều Tiên] hay Hồng sâm [của Trung Quốc] là những vị thuốc quý và đắt tiền thật sự. Nhưng ở một bệnh nhân đang bị tiêu chảy hay sốt cao mà dùng thì bệnh sẽ nặng hơn thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng. Còn cỏ mực là thứ mọc hoang ở mọi nơi, chỉ cần một vẹn tay [khoảng 100 gr] có thể cứu được một bệnh nhân băng huyết…
Cũng theo ông, Đông dược nói chung [kể cả thuốc Bắc và Nam] hầu hết đều sử dụng thảo mộc. Mà cây cỏ mọc ở xứ sở nào, địa phương nào thì phù hợp với con người [kể cả động vật] ở xứ sở đó, địa phương đó hơn, có tác dụng chữa bệnh tốt hơn. Vị danh y Tuệ Tĩnh của nước ta trước đây [người đã được triều đình nhà Minh mời sang để trị bệnh cho vua Minh] đã có một câu nói rất nổi tiếng: “Nam dược trị Nam nhân” cho đến nay vẫn là một phương châm bất hủ về quan niệm dùng thuốc của nhân dân ta.
Khi có bệnh phải dùng đến thuốc thì không nhất thiết cứ phải là thuốc Bắc. Thuốc Bắc đắt [gấp nhiều lần so với thuốc Nam] mà nhiều khi chưa chắc là thuốc Bắc thật sự vì một số người đã lợi dụng tâm lý của người bệnh nên “biến” thuốc Nam thành thuốc Bắc. Người bệnh uống thuốc Nam lại phải trả tiền thuốc Bắc. Thuốc hay [tức là chữa được bệnh], hoặc không hay [tức là không chữa được bệnh] là tùy thuộc vào trình độ, khả năng, kinh nghiệm của thầy thuốc và chất lượng của thuốc. Nhiều khi chỉ cần sử dụng mấy thứ cây cỏ xung quanh nhà hoặc mua một số vị thuốc Nam, không đáng bao nhiêu tiền nhưng lại chữa được bệnh.
[Sưu tầm]
Lấy nguồn cảm hứng từ những ứng dụng tuyệt vời của thuốc từ thiên nhiên, bài viết sẽ giới thiệu sơ lược về các khái niệm thường gặp trong Đông dược và hoạt động nghiên cứu sản xuất thuốc ở công ty Đông Dược. Để các khái niệm trở nên gần gũi dễ nắm bắt, chúng tôi viết về tính ứng dụng nhiều hơn lý luận, đồng thời cũng lấy nhiều ví dụ, hình ảnh liên quan đến những chế phẩm OPC để minh họa.
1. Khái niệm và phân loại
Thuốc Đông y là thuốc từ Dược liệu được bào chế theo lý luận và phương pháp y học cổ truyền các nước phương Đông. Ở Việt Nam, thuốc y học cổ truyền cũng được dùng với ý nghĩa tương đương thuốc Đông y, bao gồm các vị thuốc Bắc và thuốc Nam đang được sử dụng ở nước ta. Đông dược là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về thuốc Đông y hay cụ thể là về các dược liệu, bài thuốc đang sử dụng ở các nước phương Đông.
Qua quá trình tìm hiểu các dược liệu làm thuốc, người ta tìm cách phân loại nhằm tạo tính quy luật để có thể dự đoán được tác dụng của dược liệu. Trước kia sự phân loại thông qua kinh nghiệm sử dụng, ngày nay phân loại theo nhóm hoạt chất sinh học. Dưới đây là một số cách phân loại dược liệu :
a/ Theo âm dương ngũ hành [Yin-yang and Five phase]: chia làm âm dược [Yin herbs] và dương dược [Yang herbs]. Các vị âm dược thường có vị mặn, đắng, chua, có tính lương hoặc hàn, có công năng giải biểu nhiệt [exterior-releasing], thanh nhiệt [heat-clearing], bổ âm [yin-tonifying], phần lớn mang tính ức chế. Hầu hết các vị thuốc dùng trong sản phẩm Viên thanh nhiệt giải độc Cabovis đều là âm dược: ngưu hoàng, thạch cao, đại hoàng, hoàng cầm… dùng cho các trường hợp do nóng trong người gây nên như: viêm họng, sưng đau chân răng, lở loét miệng, mụn nhọt, táo bón, …
b/ Theo bát pháp [eight methods]: chia theo tác dụng thuốc, gồm 8 loại: hãn, thanh, ôn, tiêu, thổ, hạ, hòa, bổ.
d/ Theo tính vị: được làm rõ trong phần 2 - Tính năng của thuốc Đông y.
e/ Theo tác dụng điều trị: Là cách phân loại phổ biến nhất hiện nay.
Danh mục thuốc thiết yếu Đông y và thuốc từ dược liệu của Bộ y tế của Việt Nam cũng phân chia theo nhóm điều trị, trong các nhóm lại liệt kê một số chế phẩm điển hình, như chế phẩm Kim tiền thảo, Diệp hạ châu [Nhóm thuốc thanh nhiệt, giải độc, tiêu ban, lợi thuỷ], Linh chi, Tam thất [Nhóm thuốc chữa các bệnh về Âm, về Huyết], Ích mẫu [Nhóm thuốc điều kinh, an thai], Trinh nữ hoàng cung, Tô mộc, Tỏi – Nghệ [Nhóm thuốc nhuận tràng, tả hạ, thu liễm, tiêu thực, bình vị, kiện tì], Cao sao vàng, Cồn xoa bóp, Dầu gió [Nhóm thuốc dùng ngoài]…
f/ Theo nhóm hoạt chất: Phân loại cây thuốc ngày nay của bộ môn Dược liệu học [pharmacognosy] dựa vào các thiết bị phân tích thành phần hóa học hiện đại, nên có thể phân chia cây thuốc theo các nhóm hoạt chất chính [các hoạt chất có cấu trúc hóa học tương tự nhau xếp vào một nhóm]. Ví dụ cấu trúc các alkaloid đa số có nguyên tử Nitơ có tính bazơ, còn cấu trúc các glycoside thì bao gồm 2 phần là phần đường và phần aglycone…
Bảng sau giới thiệu mối liên quan giữa một số hoạt chất chính và dược liệu chứa nó đang được sử dụng tại OPC:
Một số thuốc trên thị trường chỉ gồm hoạt chất dược liệu [như viên nén Berberin 100mg] hoặc có những thuốc phối hợp cả hoạt chất phân lập từ dược liệu với các dược liệu khác [ như phối hợp berberin với Mộc hương, Ngô thù du và Bạch thược trong sản phẩm Inberco; phối hợp cineol và Húng chanh, Núc nác trong chế phẩm ho Astex …]. Sự phối hợp độc đáo giữa các hoạt chất phân lập từ dược liệu và các vị thuốc YHCT là sự kết hợp Đông y và Tây y để có được những chế phẩm hiệu quả cao và an toàn trong điều trị.
g/ Theo nguồn gốc địa lý
Theo thông tư 40/2013/TT-BYT thì thuốc Y học cổ truyền có 2 nguồn gốc : Bắc và Nam. Thông thường thuốc Nam được hiểu là vị thuốc được trồng trong nước và Thuốc Bắc là những thuốc có nguồn gốc từ phía Bắc như Trung Quốc, tuy nhiên có những vị thuốc được trồng cả ở Việt Nam và Trung Quốc, hoặc những vị thuốc di thực từ Trung Quốc vào Việt Nam, hoặc có những vị thuốc trồng ở Việt Nam xuất sang Trung Quốc sau đó lại nhập vào Việt Nam…
Thuốc Nam của chúng ta đã có từ rất lâu đời, gắn với tác phẩm “Nam dược thần hiệu” của danh y Tuệ Tĩnh. Tác phẩm của Tuệ Tĩnh Thiền Sư - ông tổ ngành dược Việt Nam, luôn thể hiện rõ quan điểm "Nam dược trị Nam nhân". Từ bao đời nay, giới khoa học và nhân dân Việt Nam đều công nhận Ông có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, phù hợp với thực tế nước ta.
Hiện nay tuy các sách dược liệu ngoại văn khá phong phú, nhưng Việt Nam cũng có những tác phẩm tâm huyết có giá trị cao về thuốc Nam như Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam [Đỗ Tất Lợi], Cây thuốc Việt nam và những bài thuốc thường dùng [Nguyễn Viết Thân], Từ điển cây thuốc Việt Nam [Võ Văn Chi], Dược lý trị liệu của thuốc Nam [Bùi Chí Hiếu] …. và một trong những công trình lớn nhất gần đây là Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam [Viện Dược liệu] tổng hợp 920 cây thuốc và 80 động vật thường dùng.
2. Tính năng của thuốc Đông y
Theo quan điểm Đông dược, một dược liệu có mối liên quan giữa tính năng [ khí vị, quy kinh, khuynh hướng thăng giáng phù trầm] và tác dụng điều trị cơ bản của nó.
- Tứ khí [four qi] và ngũ vị [five flavours]:
Về thành phần hóa học, các vị thuốc tính lạnh và mát [ hàn lương ] thường chứa glycosid, alkaloid, chất đắng; trong đó các vị thuốc tính nóng và ấm [nhiệt ôn] thường chứa tinh dầu, đường…Nhiều thuốc OPC đã vận dụng lý luận của tứ khí đem lại hiệu quả điều trị cao: viên thanh nhiệt giải độc Cabovis [nhiều vị thuốc tính hàn], viên xoang mũi Rhinassin [nhiều vị thuốc tính ôn], Bát vị Bổ thận dương [quế, phụ tử có tính nhiệt].
+ Ngũ vị: mỗi dược liệu được đặc trưng bởi một hay nhiều vị do cảm giác của lưỡi đem lại, có 5 vị chính: chua, cay, đắng, mặn, ngọt. Ngoài ra còn có 2 vị phụ là vị nhạt và chát.
- Giải thích tính năng của thuốc Đông dược theo Dịch học [I Ching]:
Có lẽ bạn sẽ thắc mắc tại sao người xưa lại phát hiện ra tính năng của các thảo dược? Chẳng hạn tại sao quan sát thấy chiết xuất của 1 lạng nhân sâm là đủ để giết chết một con voi, nhưng người ta vẫn tin Nhân sâm là vị thuốc cực quý?.
Có lẽ lời giải đáp nằm ở sự quan sát, suy luận khá sắc sảo của người xưa về đặc tính của cây cỏ xung quanh, và lý luận Dịch học thời bấy giờ. Theo lý giải của Dịch học, Nhân sâm trồng nơi rừng sâu, chỗ ẩm ướt, bởi Âm Thủy sinh ra; lúc sinh ra thân có 3 nhánh, có 5 lá chét, mà 3 và 5 là số Dương. Nói cách khác, Nhân sâm sinh từ Âm, mà trưởng thành Dương, giống như khí trong cơ thể là Dương, được sinh ra từ Thận là Âm. Vì vậy Nhân sâm được gọi là thánh dược để bổ khí sinh tân.
Dịch học trong Đông y [hay Y dịch] của người xưa đã lý giải được rất nhiều bí ẩn của cơ thể người, sự hình thành bào thai, nguồn gốc dược tính của thực vật, vùng thổ nhưỡng nuôi trồng cây thuốc…mà sau này khoa học hiện đại mới khám phá ra được. Có thể nói Dịch học giống như một món ăn tinh thần “lạ miệng” tăng thêm cái cảm giác vừa “khó nhai” vừa thích thú khi chúng ta đào sâu tìm tòi môn Đông dược đầy mầu nhiệm này.
3. Phương thuốc Y học cổ truyền [ bài thuốc YHCT ]
Các phương thuốc trong Y học cổ truyền thường có nhiều vị thuốc phối hợp như Thập toàn Đại bổ [10 vị], Minh mạng hoàn [18 vị]…nhưng cũng có nhiều phương thuốc chỉ dùng độc vị cũng mang lại hiệu quả điều trị cao như Kim tiền thảo, Linh chi, Tam thất, Nhân sâm, Bạch quả, Diệp hạ châu, Hà thủ ô đỏ.
Căn cứ theo tính năng, các vị của một bài thuốc được đóng vai trò Quân, Thần, Tá, Sứ khác nhau. Cách gọi tên này là do xuất phát từ quy ước và vị trí ngôi thứ thời phong kiến, ý nghĩa chỉ đơn giản như sau:
- Quân [Sovereign]: vị thuốc có tác dụng chính trong phương, chữa triệu chứng chính.
- Thần [Minister]: vị thuốc có tác dụng hỗ trợ chữa triệu chứng chính hay những khía cạnh liên quan đến bệnh.
- Tá [Assistant]: vị thuốc chữa triệu chứng khác của bệnh, thường chia nhóm rất đa dạng.
- Sứ [Courier]: dẫn thuốc vào kinh, hoặc chữa triệu chứng phụ hay hòa hoãn tác dụng.
Bảng sau phân tích bài thuốc từ chế phẩm Lục vị Bổ thận âm của OPC, một phương thang quan trọng trong Đông y với sự cân bằng công năng của 6 vị thuốc [ tam bổ tam tả, bổ trợ cho nhau], với lý luận “trong bổ có tả và trong tả có bổ” trên 3 tạng can, tỳ và thận:
4. Sứ mệnh nghiên cứu thuốc Đông dược tại OPC
Đông dược và Dược liệu học có vai trò rất quan trọng, cung cấp những kiến thức nền tảng để các viện nghiên cứu, trường đại học, cơ sở chế biến thuốc tham khảo và xây dựng các nghiên cứu chuyên sâu, với mục tiêu cuối cùng là “cung cấp sản phẩm chất lượng cao,hiệu quả, an toàn, mang tính đột phá, đáp ứng nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng động”. Đó cũng chính là sứ mệnh cao quý của ngành Đông dược nói chung và của các đơn vị sản xuất dược phẩm nói riêng như OPC cần phải luôn hướng tới.
Để hoàn thành sứ mệnh cao quí này cần có một chiến lược lâu dài, cần sự chuyên môn hóa sâu từ nuôi trồng, cung ứng nguyên liệu đến phân phối sản phẩm tới tay người dùng.
Đông dược là một bộ môn khoa học kỹ thuật có tính hệ thống và phát triển ở trình độ cao. Đặc điểm này thể hiện rõ nét ở 3 công đoạn sau, cũng là những công đoạn then chốt nhất để hình thành nên 1 sản phẩm chất lượng:
Hình bên minh họa một phần của hệ thống sản xuất viên hoàn [pills] tự động với 3 giai đoạn chính: [1] Trộn thành hỗn hợp dẻo – [2] Tạo viên – [3] Sấy vi sóng. Quá trình sản xuất được kiểm soát chặt chẽ theo quy định GMP và ISO 9001-2000.
Bảng tổng hợp 1 số dạng thuốc tại OPC và ví dụ về chế phẩm: | ||
Cồn thuốc dạng xịt Cồn xoa bóp OPC | Dầu xoa Dầu dân tộc | Cao xoa Cao sao vàng |
Gel thuốc Picado | Thuốc mỡ Trancumin- OPC | Siro thuốc Thuốc ho Astex |
Cao lỏng Cao ích mẫu | Rượu thuốc Linh chi đại bổ | Trà túi lọc Trà túi lọc Ruton |
Viên nén bao đường Kim tiền thảo OPC | Viên nén bao phim Viên đại tràng Inberco | Viên nang cứng Linh chi sâm |
Viên nang mềm Viên dưỡng não OP.Can | Viên hoàn cứng Đởm kim hoàn | Viên hoàn mềm Minh mạng hoàn |
+ Công đoạn kiểm soát – kiểm tra chất lượng: xây dựng và thẩm định một bộ tiêu chuẩn gồm nhiều chỉ tiêu chất lượng [cảm quan, vi phẫu, độ ẩm, định tính, định lượng, vi sinh…] nhằm kiểm soát trong quá trình sản xuất và đảm bảo được độ ổn định của thuốc trong quá trình lưu hành. Từ các trang thiết bị thông thường đến máy móc phân tích chuyên dùng hiện đại có độ chính xác và độ đặc hiệu cao [ như máy quang phổ, sắc ký lỏng, sắc ký khí …] những thếit bị này công cụ cần thiết cho các công ty Đông dược hoặc các viện nghiên cứu kiểm tra chất lượng thuốc.
Nhà triết học Các Mác có câu nói nổi tiếng: "Một bước hành động thực tế quan trọng hơn cương lĩnh". Không thể phản bác là lý luận Đông dược ra đời từ trước công nguyên và tồn tại đến tận hôm nay chính là do sự kiểm chứng thực tiễn khắt khe của quần chúng và giới khoa học trải rộng trong không gian và thời gian. Đông Dược ngày nay ngày càng hoàn thiện hơn về phương pháp luận được các ngành khoa học hiện đại phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng, dần dần làm rõ những vấn đề phức tạp, khó hiểu mà người xưa viết ra. Và cũng không thể phủ nhận là Đông Dược ngày nay ngày càng mở rộng phạm vi ứng dụng điều trị, ngày càng được ưa chuộng trong dự phòng và chăm sóc sức khỏe lâu dài của nhân dân./.
37452 04/09/2015
DS Mạnh Hùng