Thuốc gi là gì

Thuốc chữa cảm khiến bạn buồn ngủ, aspirin có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng như chảy máu và loét dạ dày. Tại sao thuốc lại có những tác dụng phụ như vậy?

Đối với nhiều người, uống thuốc là việc làm hàng ngày để điều trị một bệnh mạn tính nào đó hoặc nâng cao sức khỏe. Mặc dù thuốc có thể giúp chúng ta khỏe mạnh, nhưng cần phải biết rằng tất cả các loại thuốc,cả thuốc kê đơn và thuốc không kê  đơn, đều có lợi ích cũng như rủi ro đi kèm.

Điểm chung của tất cả các loại thuốc là đều có khả năng gây hại.

Lợi ích chung của thuốc  là những tác dụng hữu ích nhận được khi sử dụng như giảm huyết áp, chữa nhiễm trùng hoặc giảm đau. Rủi ro của thuốc là những điều không mong muốn có thể xảy ra khi sử dụng thuốc. Rủi ro có thể ít nghiêm trọng như đau bụng nhưng có thể nghiêm trọng hơn như tổn thương gan.

1.Thuốc hoạt động như thế nào?

Các phương thức hoạt động của từng thuốc rất đa dạng. Thông thường một phần nhỏ của phân tử thuốc hoạt động trên một thụ thể cụ thể trên tế bào phục vụ một chức năng cơ thể nhất định,như truyền thông điệp thần kinh hoặc nội tiết tố.Thuốc có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền [ chất chủ vận] hoặc ức chế nó [ chất đối kháng].Ví dụ, thuốc  đối kháng thụ thẻ H2, ngăn chặn một con đường thúc đẩy tiết acid dạ dày.

Các loại thuốc không nhắm vào cơ thể mà nhắm vào các vi sinh vật xâm nhập. Một  ví dụ về các chất kháng khuẩn là thuốc kháng sinh.Thuốc kháng sinh hoạt động bằng cách làm hỏng thành hoặc màng tế bào của vi khuẩn nhạy cảm.

Một số loại thuốc hỗ trợ các chức năng nhất định của cơ thể hoạt động bằng cách thay đổi môi trường bên trong hoặc bên ngoài cơ thể.

2.Tại sao thuốc có tác dụng phụ?

Bên cạnh tác dụng chữa bệnh của thuốc, luôn tiềm ẩn những nguy cơ. Ví dụ thuốc chống viêm NSAID có tác dụng làm giảm tác nhân trung gian gây viêm ở khớp, làm giảm đau khớp trong bệnh viêm khớp, nhưng nó cũng cản trở khả năng của dạ dày để chống lại tác hại của acid dịch vị và có thể gây ra viêm loét dạ dày tá tràng.

Vitamin cần thiết cho sức khỏe, nhưng dư thừa cũng sẽ có hại nhất là các vitamin tan trong dầu. Thuốc nhuận tràng và các thuốc kháng acid có thể có tác dụng phụ nếu dùng quá mức do cản trở sự hấp thu chất dinh dưỡng và các loại thuốc khác.

Mặc dù các tác dụng phụ thường không mong muốc và có hại, nhưng đôi khi chúng có thể có lợi và dẫn đến việc khám phá ra các chỉ định điều trị mới cho thuốc.

3.Các tác dụng phụ xảy ra khi nào?

Bắt đầu dùng một loại thuốc mới hoặc thực phẩm chức năng.

Ngừng dùng một loại thuốc đã sử dụng trong một thời gian.

Tăng hoặc giảm liều lượng của thuốc đang dùng.

Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc có xuất hiện tác dụng phụ khi dùng thuốc, bao gồm:

+ Tuổi tác

+ Sử dụng các loại thuốc, vitamin hoặc thực phẩm chức năng.

+ Các bệnh hoặc tình trạng tiềm ẩn khác [các bênh làm suy yếu hệ thống miễn dịch hoặc ảnh hưởng đến chức năng của thận hoặc gan]

Các tác dụng phụ có thể xay ra ở tất cả các loại thuốc, ngay cả những loại thuốc được bán không cần đơn. Các loại thuốc giảm đau quen thuộc như aspirin và paracetamol nếu không được sử dụng cẩn thận có thể gây xuất huyết dạ dày và tổn thương gan.

4/ Làm gì để hạn chế các tác dụng phụ của thuốc.

- Không có loại thuốc nào, ngay cả thuốc không kê đơn hoặc thuốc thảo dược là hoàn toàn không có tác dụng phụ. Nguyên tắc đầu tiên là chỉ sử dụng thuốc khi thực sự cần thiết. Các quảng cáo về công dụng của thuốc tràn lan, cần xem xét cẩn thận trước khi sử dụng.

- Đôi khi không thể tránh khỏi tác dụng ngoại ý để đạt được công dụng của thuốc.Vì vậy cần trao đổi với bác sĩ điều trị về những gì cần chú ý và phải làm gì nếu các tác dụng phụ xảy ra.

- Để sử dụng thuốc không kê đơn an toàn cần chú ý:

+ Luôn đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng.

+ Các cơ quanquản lý dược phải phê duyệt các loại thuốc và yêu cầu ghi nhãn chi tiết các sản phẩm.

+ Bao bì và nhãn sản phẩm phải nêu chính xác mục đích và hiệu quả của thuốc và nêu chi tiết các tác dụng phụ đã biết và tiềm ẩn của nó.

+ Người tiêu dùng thông thái sẽ nghiên cứu kỹ nhãn mác trước khi sử dụng và không dùng quá liều lượng khuyến cáo.

+ Đọc thật kỹ thông tin trên nhãn thuốc

+ Tham khảo ý kiến chuyên gia y tế trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc nào.

Thuốckhi được sử dụng đúng cách sẽ mang lại lợi ích to lớn cho sức khỏe, ngược lại là những rủi ro vô cùng nguy hiểm nếu sử dụng không đúng cách.

Đặng Thị Mộng Thu- Khoa Dược. [ST]

Người tiêu dùng hiện nay khi mua thuốc họ như là đứng giữa một rừng thông tin về thuốc như: giới thiệu, quảng cáo về thực phẩm chức năng hay mỹ phẩm trên các phương tiện thông tin. Vậy Thuốc [dược phẩm] được hiểu như thế nào?

Thuốc được hiểu đơn giản là dùng để chữa bệnh. Thuốc là một chất hoặc hỗn hợp các chất được cô đọng lại thành dung dịch hoặc dạng viên.

Tân Dược là loại thuốc được sản xuất từ hóa chất, các loại vi nấm, các loại cây cỏ bào chế dưới dạng tinh khiết hoặc một số chất bán tổng hợp thành. Tác dụng của tân dược có hiệu lực trị bệnh rất cao và tiện dụng. Nhưng nguồn gốc thuốc là từ hóa chất nên sẽ có cảnh báo phản ứng phụ hoặc có những chất trong thuốc lựa chọn người sử dụng chứ không phải ai cũng được dùng.

Khi nào nên dùng Colchicine Điều trị bệnh Gút

Đông Dược được gắn liên với Đông Y là những thuốc xuất phát hoàn toàn từ thiên nhiên như cây cỏ, khoáng vật, động vật… Hiện nay đông dược vẫn được bào chế theo phương pháp cổ truyền, những phương pháp này dần được cải tiến để tạo hiệu quả tốt nhất khi sử dụng. Một số ít đông dược được bào chế ở dang viên hoặc hòa tan để tăng độ tiện dụng cho người bệnh. Công hiệu trị bệnh của đông dược yếu hơn so với Tân Dược tuy nhiên Đông Dược lại có thể giải quyết một số bệnh mãn tính theo cơ chế điều hòa cân bằng cơ thể và đây cũng là điểm mạnh riêng so với Tân Dược

Vẫn còn nhiều người lầm tưởng Thực phẩm chức năng là thuốc nhưng thực tế không phải như vậy. Thực phẩm chức năng chỉ hỗ trợ những chức năng các bộ phận trong cơ thể mà thôi, ngoài ra còn có tác dụng dinh dưỡng tăng sức đề kháng. Thực phẩm chức năng cũng không được phép kê đơn cho người bệnh vì hoàn toàn không có tác dụng chữa bệnh hoặc thay thế bất kỳ một loại thuốc nào.

Tóm lại người dùng phải là những người có kiến thức để không bị luẩn quẩn trong việc phân biệt đâu là “ Thuốc ”. Nhưng Thực phẩm chức năng cũng không phải là không tốt bản thân nó có chứa yếu tố có lợi và tác dụng sinh học, những thực phẩm chức năng này còn được gọi là thực phẩm thuốc hay là dược phẩm dinh dưỡng.

Caodangduochanoi.edu.vn tổng hợp.

Một loại thuốc được chỉ định phụ thuộc vào sự cân bằng giữa lợi ích và nguy cơ của nó. Khi đưa ra quyết định, bác sĩ lâm sàng thường cân nhắc các yếu tố có phần chủ quan, chẳng hạn như kinh nghiệm cá nhân, truyền miệng, người thực hành trước và ý kiến chuyên môn.

Số bệnh nhân cần được điều trị [NNT] ít mang tính chủ quan về những lợi ích có thể có của một loại thuốc [hoặc bất kỳ sự can thiệp nào khác]. NNT là số bệnh nhân cần được điều trị để mang lại lợi ích cho một bệnh nhân. Ví dụ, hãy xem xét một loại thuốc làm giảm tỷ lệ tử vong của một bệnh cụ thể từ 10% xuống 5%, giảm nguy cơ tuyệt đối là 5% [1 trong 20]. Điều đó có nghĩa là 100 bệnh nhân, 90 người sẽ sống ngay cả khi không điều trị, và do đó sẽ không được hưởng lợi từ thuốc. Bên cạnh đó, 5 trong số 100 bệnh nhân sẽ chết mặc dù họ dùng thuốc và do đó cũng không có lợi. Chỉ có 5 trong 100 bệnh nhân [1 trong 20] được hưởng lợi từ việc dùng thuốc; Do đó, cần 20 bệnh nhân được điều trị để 1 bệnh nhân được hưởng lợi từ việc điều trị, và NNT là 20. NNT có thể được tính toán đơn giản là nghịch đảo của việc giảm nguy cơ tuyệt đối; nếu giảm nguy cơ tuyệt đối là 5% [0,05], NNT = 1/0,05 = 20. NNT cũng có thể được tính toán cho các tác dụng không mong muốn, trong trường hợp đó đôi khi nó được gọi là số người cần được điểu trị để xảy ra tác hại [NNH].

Quan trọng là NNT dựa trên sự thay đổi nguy cơ tuyệt đối; không thể tính được từ những thay đổi nguy cơ tương đối. Nguy cơ tương đối là tỷ lệ phần trăm của hai nguy cơ. Ví dụ, một loại thuốc giảm tỷ lệ tử vong từ 10% xuống 5% nghĩa là làm giảm tử vong tuyệt đối 5% nhưng giảm tỷ lệ tử vong tương đối là 50% [tức là tỷ lệ tử vong 5% chỉ ra rằng ít tử vong hơn 50% so với tỷ lệ tử vong 10%]. Thông thường, lợi ích được báo cáo trong y văn là giảm nguy cơ tương đối bởi vì nhìn vào số liệu này sẽ thấy thuốc hiệu quả hơn so với giảm nguy cơ tuyệt đối [trong ví dụ trước, giảm 50% tử vong có vẻ tốt hơn giảm 5%]. Ngược lại, các tác dụng không mong muốn thường được báo cáo theo nguy cơ tuyệt đối tăng bởi vì chúng tạo ra một loại thuốc an toàn hơn. Ví dụ, nếu thuốc tăng tỷ lệ xuất huyết từ 0,1% đến 1%, mức tăng này thường được báo cáo là 0,9% hơn là 1000%.

  • Tính toán số người cần được điều trị [NNT] dựa trên sự thay đổi nguy cơ tuyệt đối, chứ không phải là tương đối.

Khi NNT cân bằng với NNH, điều quan trọng là cân nhắc giữa lợi ích cụ thể và các nguy cơ. Ví dụ, một thuốc có nhiều tác hại hơn lợi ích vẫn có thể được kê đơn nếu các tác hại đó là nhỏ [ví dụ tác hại có thể hồi phục, nhẹ] và các lợi ích là lớn [ví dụ như ngăn ngừa tử vong hoặc phòng bệnh]. Trong mọi trường hợp, sử dụng các chỉ tiêu hướng tới bệnh nhân là tốt nhất.

Dữ liệu về gen đang ngày càng được sử dụng để xác định các phân nhóm bệnh nhân nhạy cảm hơn với những lợi ích và tác dụng không mong muốn của một số loại thuốc. Ví dụ, ung thư vú có thể được xét nghiệm các chỉ dấu di truyền HER2 dự đoán đáp ứng với các loại thuốc hóa trị liệu nhất định. Bệnh nhân HIV/AIDS có thể được xét nghiệm với allele HLA-B * 57: 01, gen dự đoán quá mẫn với abacavir, làm giảm tỷ lệ phản ứng quá mẫn và do đó làm tăng NNH. Sự khác nhau về gen của các enzym chuyển hóa thuốc khác nhau giúp dự đoán bệnh nhân đáp ứng với thuốc xem dược học di truyền Gen dược học như thế nào và cũng thường ảnh hưởng đến lợi ích, tác hại, hoặc cả hai.

Một mục tiêu phát triển thuốc là có sự khác biệt lớn giữa liều hiệu quả và liều gây ra các tác dụng không mong muốn. Sự khác biệt lớn được gọi là phạm vi điều trị rộng, hệ số điều trị, hoặc cửa sổ điều trị. Nếu phạm vi điều trị là hẹp [ví dụ, < 2], các yếu tố thường không quan trọng về mặt lâm sàng [ví dụ, tương tác giữa thức ăn và thuốc, tương tác thuốc-thuốc Tương tác thuốc , sai sót nhỏ trong liều lượng] có thể gây ra những tác động lâm sàng có hại. Ví dụ, warfarin có một phạm vi điều trị hẹp và tương tác với nhiều loại thuốc và thức ăn. Liều thuốc chống đông không đủ làm tăng nguy cơ biến chứng của các bệnh cần được điều trị bằng thuốc chống đông máu [ví dụ tăng nguy cơ đột quỵ trong rung tâm nhĩ], trong khi quá liều thuốc chống đông làm tăng nguy cơ chảy máu.

Video liên quan

Chủ Đề