Sư đoàn 2 ở đâu

Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị theo dõi sát sao cuộc diễn tập.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, đúng kế hoạch, đạt được mục đích yêu cầu đề ra, bảo đảm bí mật và an toàn tuyệt đối, Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn 325 và các đơn vị trực thuộc đã quán triệt sâu sắc Chỉ lệnh công tác quân sự, quốc phòng năm 2021 của Tổng Tham mưu trưởng, nhất là chủ đề huấn luyện năm 2021: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc diễn tập, hội thi, hội thao trong nước, quốc tế”; xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện tốt công tác chuẩn bị về con người, cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho diễn tập.

Trong quá trình diễn tập, các lực lượng của Quân đoàn 2 đã phối hợp chặt chẽ với hỏa lực của Quân chủng Phòng không-Không quân, Binh chủng Pháo binh trong các giai đoạn chiến đấu. Quá trình cơ động bộ binh, xe tăng tổ chức vượt qua các địa hình phức tạp đồi núi, sông, suối, thực hành tốt việc đánh chiếm các mục tiêu.

Lực lượng tăng thiết giáp khai hỏa hạ mục tiêu.

Lực lượng Pháo binh thực hành bắn chi viện.

Các đơn vị tham gia thực binh đã thực hiện đầy đủ, đúng thứ tự nội dung, biện pháp các bước trong chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu; tổ chức chuẩn bị chiến đấu và thực hành chiến đấu; vận dụng linh hoạt nguyên tắc, lý luận, hình thức chiến thuật và phương pháp công tác tham mưu tác chiến. Các đơn vị tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, xử lý linh hoạt các tình huống, thực hiện tốt kế hoạch diễn tập.

Thiếu tướng Trần Danh Khải, Chính ủy Quân đoàn 2 trao quà tặng các đơn vị tham gia diễn tập.

Cuộc diễn tập có kết quả thành công tốt đẹp. Đây là cơ sở để Quân đoàn 2rút kinh nghiệm công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, diễn tập; nâng cao trình độ chỉ huy tham mưu, hiệp đồng tác chiến của đội ngũ cán bộ các cấp, khả năng hiệp đồng chiến đấu quân binh chủng của các cơ quan, đơn vị. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đoàn trong tình hình mới.

Tin, ảnh: NGUYỄN TUẤN

Tham gia diễn tập còn có Sư đoàn Không quân 372 [Quân chủng Phòng không - Không quân] và các lữ đoàn binh chủng của quân khu. Trung tướng Thái Đại Ngọc, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 5 dự và chỉ đạo diễn tập.

Bộ tư lệnh Quân khu 5 tặng quà cho các đơn vị tham gia diễn tập.

Với đề mục "Sư đoàn bộ binh tiến công địch phòng ngự ở địa hình trung du”, cuộc diễn tập diễn ra qua 4 giai đoạn: Chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu; tổ chức chuẩn bị chiến đấu; thực hành chiến đấu và bắn đạn thật.

Lãnh đạo Sư đoàn Bộ binh 2 động viên bộ đội.

Sau khi nhận lệnh của cấp trên, Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn Bộ binh 2 đã lãnh đạo, tổ chức cho đơn vị chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, hành quân bí mật, an toàn. Tổ chức chuẩn bị chiến đấu toàn diện, chu đáo và thực hành tiến công theo đúng ý định, hiệp đồng chặt chẽ với các quân, binh chủng. Đặc biệt, quá trình bắn đạn thật đã tiêu diệt hết các mục tiêu, bảo đảm an toàn tuyệt đối về người và vũ khí trang bị kỹ thuật.

Chỉ huy bắn đạn thật.

Thông qua đợt diễn tập giúp Thường vụ Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 5 đánh giá toàn diện chất lượng huấn luyện, khả năng chiến đấu, hiệp đồng quân, binh chủng của đơn vị; bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp công tác của chỉ huy - cơ quan trong chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, làm công tác chuẩn bị chiến đấu và thực hành chiến đấu. Đồng thời tìm ra những hạn chế, khuyết điểm để lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao trình độ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của đơn vị trong những năm tới.

Tin, ảnh: LÊ HOA - QUỐC CHƯỞNG

Sư đoàn 2 Bộ binh[1] [tiếng Anh: 2nd Infantry Division, 2nd ID] là một trong ba đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại từ 1955 đến 1975, hoạt động và trách nhiệm bảo vệ an ninh khu vực các tỉnh phía nam của lãnh thổ Quân khu 1. Sư đoàn đã được tuyên dương công trạng 16 lần trước quân đội và đã được nhận lãnh giây biểu chương màu tam hợp trên quân kỳ Sư đoàn.

  • Bộ Tư lệnh Sư đoàn đặt tại Căn cứ Chu Lai.[2]
Sư đoàn 2 Bộ binh
Việt Nam Cộng hòaHoạt độngQuốc giaPhục vụQuân chủngPhân loạiBộphậncủaKhẩu hiệuTham chiếnCác tư lệnhChỉ huy
nổi tiếng

Phù hiệu

1955-1975
Việt Nam Cộng hòa
Quân lực VNCH
Lục quân
Bộ binh
Quân đoàn I và Quân khu 1
Bộ Tổng Tham mưu
-Chiến thắng
-Vinh quang
-Trận Mậu Thân
-Mùa hè đỏ lửa
-Tôn Thất Đính
-Dương Ngọc Lắm
-Lâm Văn Phát
-Tôn Thất Xứng
-Nguyễn Thanh Sằng
-Hoàng Xuân Lãm
-Trần Văn Nhựt

Quân kỳ

Mục lục

  • 1 Lịch sử hình thành
  • 2 Đơn vị trực thuộc và phối thuộc
  • 3 Bộ Tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy Trung đoàn tháng 3/1975
  • 4 Trung đoàn Pháo binh
  • 5 Tư lệnh Sư đoàn qua các thời kỳ
  • 6 Chú thích
  • 7 Xem thêm
  • 8 Tham khảo
  • 9 Liên kết

Lịch sử hình thànhSửa đổi

Tiền thân Sư đoàn 2 Bộ binh là "Liên đoàn 32 Lưu động" thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp, thành lập vào ngày 3 tháng 11 năm 1953 tại Mỹ Côi, Ninh Bình. Đến đầu tháng 1 năm 1955 Quân đội Pháp bàn giao Liên đoàn cho sĩ quan người Việt chỉ huy và người đầu tiên chỉ huy Liên đoàn là Trung tá Tôn Thất Đính. Ngày 16 tháng 1 năm 1955, Liên đoàn 32 Lưu động được lệnh giải tán và dùng làm nòng cốt đến ngày 4 tháng 2 năm 1955 thành lập "Sư đoàn 32 Bộ binh,"[3] và Đại tá Đính[4] tiếp tục làm Tư lệnh. Đến ngày 1 tháng 8 tháng năm 1955, một lần nữa đổi tên thành "Sư đoàn 2 Dã chiến".

Sau khi chính thể Đệ Nhất Cộng hòa được thành lập. Ngày 22 tháng 11 năm 1956 Đại tá Tôn Thất Đính bàn giao Sư đoàn lại cho Trung tá Đặng Văn Sơn và nửa năm sau, ngày 16 tháng 4 năm 1957 Trung tá Lê Quang Trọng thay thế đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn. Đến ngày 1 tháng 12 năm 1958 Sư đoàn 2 Dã chiến đổi tên lần cuối, chính thức trở thành "Sư đoàn 2 Bộ binh".[5] Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng.

Tháng 5 năm 1965 Bộ Tư lệnh di chuyển về Quảng Ngãi và nhận trách nhiệm Khu 12 chiến thuật gồm 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi. Đến năm 1971 Bộ Tư lệnh Sư đoàn lại chuyển về căn cứ Chu Lai, tiếp nhận căn cứ của Sư đoàn 23 Bộ binh Hoa Kỳ.

Mùa hè năm 1972 Trung đoàn 4 Bộ binh do Đại tá Lê Bá Khiếu[6] làm Trung đoàn trưởng đã được điều động tăng cường để giải tỏa áp lực đối phương tại vùng giới tuyến.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở giới tuyến, Trung đoàn 4 vẫn do Đại tá Khiếu làm Trung đoàn trưởng được điều từ Quảng Trị trở về để phối hợp cùng Trung đoàn 5 và Trung đoàn 6. Trung đoàn 5 do Trung tá Võ Vàng[7] làm Trung đoàn trưởng và Trung đoàn 6 do Đại tá Phạm Văn Nghìn[8] chỉ huy, đã mở cuộc hành quân tái chiếm các quận Quế Sơn, Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Tín. Đồng thời, Sư đoàn 2 phối hợp với các lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân giải tỏa áp lực đối phương tại khu vực cao nguyên phía nam Quảng Ngãi. Từ chiến công phá tan mật khu Đỗ Xá năm 1970 cùng một số thắng lợi khác, các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi tạm thời yên tĩnh. Sư đoàn 2 tạm ngừng bắn từ năm 1973.

Trước tình hình chính trị, với áp lực của Quân đội Bác Việt tại miền Trung nên ngày 27 tháng 3 năm 1975 toàn bộ Quân khu cũng như Sư đoàn 2 tan hàng di tản ra Đà Nẵng. Và tại đây Sư đoàn 2 Bộ binh bị xóa phiên hiệu. Ngày 25/3/1975 sư đoàn được lệnh di tản ra đảo Lý Sơn để chuẩn bị ra chiếm lại Đà Nẵng. Cuối tháng 3/1975, sư đoàn được tay hải quân đưa về Hàm Tân để tái trang bị vũ khí và quân số. Giữa tháng 4/1975, sư đoàn ra tái chiếm Phan Rang. Sư đoàn tan hàng sau khi bị tràn ngập và tướng Nghi bị bắt sống. Số quân nhân còn lại về tập trung ở Vũng Tàu cho đến khi có lệnh của Dương văn Minh ra lệnh buông súng. Ngày 25/3/1975, khi đường từ Tam Kỳ về Chu Lai bị cắt đứt, một đố đơn vị đang hành quusn ở trong Tiên Phước cùng lực lượng Biệt Động Quân thuộc Liên đoàn 2 theo đường bộ ra Đà Nẵng và tan hàng tại đây.

Đơn vị trực thuộc và phối thuộcSửa đổi

Stt Đơn vị Chú thích Stt Đơn vị Chú thích
1[9] Trung đoàn 4 10 Biệt đội Quân Báo
2 Trung đoàn 5

Trung đoàn trưởng 1973-1975: Đại Tá Cẩm ngọc Huân, xuất thân Lực Luongj Đặc Biệt

11 Biệt đội Kỹ thuật
Biệt đội trưởng:
Đại úy Trần Trọng Tuấn
3 Trung đoàn 6 12 Biệt đội
Tác chiến Điện tử
Biệt đội trưởng:
Thiếu tá Đỗ Đặng Đăng
4[10] Đại đội
Tổng hành dinh
Đại đội Trưởng
Thiếu tá Nguyễn Tri Lộc
13 Tiểu đoàn Quân y
Tiểu đoàn trưởng:
Thiếu tá Trần Trọng Lang
5 Đại đội Trinh sát 14 Tiểu đoàn Truyền tin
Tiểu đoàn trưởng
Thiếu tá Lợi
6 Đại đội Quân Cảnh 15 Tiểu đoàn Tiếp vận
Tiểu đoàn trưởng:
Trung tá Phan Quang Ân
[Từ 1970 đến 30/4/1975]
Sau khi Trung tá Mai Xuân Tùng bị thương vì tai nạn giao thông
7 Đại đội Công vụ 16 Tiểu đoàn
Công binh chiến đấu
Tiểu đoàn trưởng:
Trung tá Mông
8 Đại đội Quân vận
[Quân xa]
Đại đội trưởng:
Đại úy Lợi
17 Trung đoàn Pháo binh Các Tiểu đoàn: 20 [155ly], 21, 22, 23 [105ly]. Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn
9 Đại đội
Hành chính Tài chính
18 Thiết đoàn 4 Thuộc "Lữ đoàn 1 Kỵ binh". Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn

Bộ Tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy Trung đoàn tháng 3/1975Sửa đổi

Stt Họ và Tên Cấp bậc Chức vụ Chú thích
1 Trần Văn Nhựt
Võ bị Đà Lạt K10
Chuẩn tướng Tư lệnh
2 Hoàng Tích Thông[11]
Võ khoa Thủ Đức K4[12]
Đại tá Tư lệnh phó
3 Nguyễn Khoa Bảo[13]
Võ bị Đà Lạt K10
Tham mưu trưởng
4 Trương Đăng Liêm[14]
Võ khoa Thủ Đức K3
Chỉ huy
Trung đoàn 4
Sau khi Sư đoàn 2 [trong đó có Trung đoàn 4] tan rã ở miền Trung. Ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Thuận thay thế Đại tá Ngô Tấn Nghĩa[15]
5 Tôn Thất Lữ Chỉ huy
Trung đoàn 5
6 Tôn Thất Hổ Trung tá Chỉ huy
Trung đoàn 6

Trung đoàn Pháo binhSửa đổi

  • Đơn vị phối thuộc
Stt Họ và Tên Cấp bậc Chức vụ Đơn vị Chú thích
1 Lê Thương[16]
Võ khoa Thủ Đức K5
Đại tá Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy
Trung đoàn
2 Nguyễn Viết Thuẫn
Võ khoa Thủ Đức K5
Trung tá Chỉ huy phó nt
3 Chu Mạnh Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 23
4 Nguyễn Văn Hà
Võ bị Đà Lạt K12
Tiểu đoàn 21
5 Thái Thành Hội
Võ bị Đà Lạt K13
Thiếu tá Tiểu đoàn 22
6 Huỳnh Nứa Tiểu đoàn 20

Tư lệnh Sư đoàn qua các thời kỳSửa đổi

Stt Họ và Tên Cấp bậc Tại chức Chú thích
1 Tôn Thất Đính
Võ bị Huế K1
Trung tá[17]
Đại tá
[2/1955]
1/1955-11/1956 Giải ngũ năm 1966 ở cấp Trung tướng
2 Đặng Văn Sơn[18]
Hạ sĩ quan Pháp
Trung tá 11/1956-6/1957 Giải ngũ năm 1964 ở cấp Đại tá
3 Lê Quang Trọng[19]
Võ bị Huế K2
6/1957-8/1958 Giải ngũ năm 1963 ở cấp Đại tá
4 Dương Ngọc Lắm
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Trung tá
Đại tá
[10/1959]
8/1958-6/1961 Giải ngũ năm 1964 ở cấp Thiếu tướng
5 Lâm Văn Phát
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Đại tá
Thiếu tướng
[11/1963]
6/1961-6/1963 Giải ngũ năm 1965 ở cấp Thiếu tướng. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 tái ngũ được thăng cấp Trung tướng
6 Trương Văn Chương[20]
Sĩ quan Đồng hóa
Đại tá 6/1963-12/1963 Giải ngũ cùng cấp năm 1965
7 Tôn Thất Xứng
Võ bị Huế K1
Đại tá
Thiếu tướng
[2/1964]
12/1963-2/1964 Giải ngũ năm 1967 ở cấp Thiếu tướng
8 Ngô Dzu
Võ bị Huế K2
Đại tá
Chuẩn tướng
[5/1964]
Thiếu tướng
[6/1966]
1/1964-7/1964 Giải ngũ năm 1974 ở cấp Trung tướng
9 Nguyễn Thanh Sằng
Võ bị Huế K2
Đại tá 7/1964-10/1964 Giải ngũ năm 1973 ở cấp Thiếu tướng
10 Hoàng Xuân Lãm
Võ bị Đà Lạt K3
Chuẩn tướng
Thiếu tướng
[11/1965]
10/1964-1/1967 Sau cùng là Trung tướng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng
11 Nguyễn Văn Toàn
Võ bị Đà Lạt K5
Đại tá
Chuẩn tướng
[6/1968]
Thiếu tướng
[11/1970]
1/1967-1/1972 Sau cùng là Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn III
12 Phan Hòa Hiệp
Võ bị Địa phương
Trung Việt Huế K2
Đại tá
Chuẩn tướng
[1/2972]
1/1972-8/1972 Sau cùng là Chuẩn tướng Trưởng đoàn Quân sự 2 bên
13 Trần Văn Nhựt Đại tá
Chuẩn tướng
[11/1972]
8/1972-4/1975 Tư lệnh sau cùng

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ 2nd Division
  2. ^ Chu Lai là một căn cứ quân sự lớn nằm ở phía nam tỉnh Quảng Tín, trước năm 1972 là nơi đóng quân của một đơn vị quân đội Mỹ cấp Sư đoàn. Vị trí này được coi như Hậu cứ của Sư đoàn 2 Bộ binh.
  3. ^ Theo Nghị định số 041 1P/NĐ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
  4. ^ Thăng cấp Đại tá ngày 1 tháng 2 năm 1955.
  5. ^ Thời điểm này, Tư lệnh Sư đoàn là Trung tá Dương Ngọc Lắm.
  6. ^ Đại tá Lê Bá Khiếu sinh năm 1934 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 4p Võ khoa Thủ Đức [khóa 10B trừ bị Đà Lạt].
  7. ^ Trung tá Võ Vàng sinh năm 1940 tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp khóa 17 Võ bị Đà Lạt.
  8. ^ Đại tá Phạm Văn Nghìn sinh năm 1933 tại Ninh Bình, tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt.
  9. ^ Từ số 1 đến số 3 là các đơn vị "Tác chiến" trực thuộc Sư đoàn.
  10. ^ Từ số 4 đến số 18 là các đơn vị Yểm trợ trực thuộc Sư đoàn.
  11. ^ Đại tá Hoàng Tích Thông sinh năm 1928 tại Hà Nội.
  12. ^ Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.
  13. ^ Đại tá Nguyễn Khoa Bảo sinh năm 1935 tại Thừa Thiên.
  14. ^ Đại tá Trương Đăng Liêm sinh năm 1932 tại Thừa Thiên.
  15. ^ Đại tá Ngô Tấn Nghĩa sinh năm 1926 tại Mỹ Tho, tốt nghiệp khóa 9 Võ bị Đà Lạt.
  16. ^ Đại tá Lê Thương sinh năm 1927 tại Lào, tốt nghiệp khóa 5 Võ khoa Thủ Đức
  17. ^ Cấp bậc khi nhậm chức.
  18. ^ Đại tá Đặng Văn Sơn sinh năm 1916 tại Huế.
  19. ^ Đại tá Lê Quang Trọng sinh năm 1925 tại Thừa Thiên.
  20. ^ Đại tá Trương Văn Chương sinh năm 1919 tại Kiến Hòa, nguyên là sĩ quan Lực lượng Giáo phái Cao Đài. Năm 1954 chuyển sang phục vụ Quân đội Quốc gia được đồng hóa cấp bậc Thiếu tá mang số quân 39/100635. Năm 1956 được đi học khóa Chỉ huy Tham mưu tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ

Xem thêmSửa đổi

  • Lục quân Việt Nam Cộng hòa

Tham khảoSửa đổi

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy [2011]. Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Liên kếtSửa đổi

  • Thời ở Sư đoàn 2 Bộ binh

Video liên quan

Chủ Đề