Vì sao có tên đak lak

Quá trình hình thành Buôn Ma Thuột - Dak Lak qua các thời kỳ lịch sử [04/03/2020]

     1 - Khái quát đặc điểm tự nhiên Buôn Ma Thuột – Dak Lak:      Dak Lak là một tỉnh nằm ở Cao Nguyên phía Tây miền Trung của Việt Nam, có diện tích tự nhiên là 13.125 km2 và dân số gần 1,8 triệu người. Phía Bắc giáp với tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp với 2 tỉnh Lâm Đồng và Dak Nông, phía Đông giáp tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên, phía Tây có đường biên giới chung với Vương quốc Campuchia.      Dak Lak là một cao nguyên thấp, độ cao trung bình khoảng 500 mét so với mặt biển, là vùng đất tương đối bằng phẳng, đôi chỗ hơi lượn sóng và bị chia cắt bởi những thung lũng, sông suối. Phía đông có những đồng cỏ trải dài, phía tây địa hình thấp dần, dòng sông Sêrêpôk chảy qua đây tạo thành những thác lớn, phía nam là miền đồng trũng có hồ Lak rộng trên 500 héc ta, hai con sông Krông Ana và Krông Nô tạo thành một vùng lưu vực rộng hàng vạn héc ta đất đai màu mỡ.      Hệ thống sông ngòi của Dak Lak khá phong phú. Con sông H’Năng và sông Hinh là hai con sông chảy dồn về tỉnh Phú Yên rồi đổ ra biển Đông. Con sông Sêrêpôk là sông lớn và dài nhất của tỉnh [332 km], bắt nguồn từ dãy Chư Yang Sin theo hướng Tây đổ vào sông Mê Kông ở Stung Treng [Campuchia]. Ngoài ra còn có nhiều chi lưu sông nhỏ chảy qua các huyện Krông Ana, Lak… Những con sông này hàng năm đã tạo ra nguồn phù sa lớn màu mỡ cho các loại cây trồng.      Dak Lak có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng của cả nước. Địa bàn đi lại thuận lợi, có cả đường bộ và đường hàng không. Đường quốc lộ 14 nối Dak Lak với các tỉnh phía Nam và phía Bắc, là con đường huyết mạch của tỉnh đi từ Plâyku qua trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột xuống Bình Phước, thành phố Hồ Chí Minh. Dak Lak còn có quốc lộ 26 nối thành phố Buôn Ma Thuột với các huyện Krông Pak, Ea Kar, M’Drak đến tỉnh Khánh Hòa; quốc lộ 27 kéo dài nối trung tâm tỉnh với huyện Lak ở phía Nam và thành phố Đà Lạt [Lâm Đồng]. Hệ thống đường giao thông khá nhiều và hoàn chỉnh đi lại rất thuận lợi. Đường hàng không đã có từ lâu và hiện nay được đầu tư, nâng cấp, thường xuyên đón các đoàn khách quốc tế và trong nước.      Dak Lak tuy ở gần đường xích đạo, nhưng điều kiện địa hình đã tạo cho khí hậu mát mẻ, ôn hòa hơn so với nhiều tỉnh khác. Có vị trí nằm ở tung tâm vùng đất Bazan của Tây Nguyên, với tổng diện tích đất đỏ khoảng 700.000 ha, chiếm 40% đất cùng loại của cả nước, thích hợp với cây công nghiệp và cây lấy gỗ. Đặc biệt cây cà phê, cây cao su thích nghi với điều kiện tự nhiên ở Dak Lak, cho năng suất và chất lượng cao hơn so với các vùng khác, thuận lợi cho việc phát triển vùng chuyên canh sản xuất cây công nghiệp dài dài và đây là một thế mạnh nổi bật của tỉnh.      Dak Lak có diện tích rừng và trữ lượng gỗ lớn, với nhiều loại gỗ quý như: Cẩm lai, giáng hương, căm xe, trắc, sao, dổi, muồng đen… Rừng có nhiều loại động, thực vật phong phú, đa dạng, nhiều chủng loại với số lượng lớn như: Voi, hổ, báo, hươu, nai, trâu, bò rừng, tê giác, tắc kè, trăn, các loại chim, ong… Đặc biệt, có vườn quốc gia Yook Đôn, rộng hàng trăm ngàn héc ta, là nơi bảo vệ các loại động vật quý hiếm ở nước ta. Yook Đôn cũng là nơi có nhiều voi sống thành từng đàn. Ở đây còn có nhiều cây dược liệu quý, đáng kể là các loại: Huyết giác, thiên môn, hổ cốt toái, sâm tuế, hải sơn, thanh học…      Dak Lak có lợi thế địa hình đa dạng, không chỉ mạnh về cây công nghiệp mà còn có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm với hàng trăm ngàn ha đất phù sa màu mỡ, có thể làm hai, ba vụ lúa trong một năm.      Dak Lak có nhiều cảnh đẹp và di tích văn hóa, lịch sử lâu đời như: Hồ Lak rộng 500 héc ta, là một hồ thiên nhiên nằm ở giữa một thung lũng đẹp và thơ mộng; thác Đray H’linh, cách thành phố Buôn Ma Thuột 15 km; khu du lịch và cầu treo Buôn Đôn mộc mạc nhưng hấp dẫn với du khách  du lịch sinh thái trong nước và quốc tế; rừng mai vàng thiên nhiên rộng hàng chục héc ta nằm trên tả ngạn sông Krông Ana; tháp Chàm ở huyện Ea Súp cao 8m rộng 5m, xây dựng từ thế kỷ XIII; Nhà đày Buôn Ma Thuột nơi chứng tích về tội ác của đế quốc, thực dân, thể hiện khí phách kiên cường của các chiến sĩ cộng sản; Đình Lạc Giao, nơi ghi lại bước chân của dân tộc Việt định cư trên vùng đất mới cùng lời nguyện giao ước sống thuận hòa anh em với đồng bào Thượng…      Dak Lak có nền văn hóa lâu đời và độc đáo, văn học dân gian phát triển sớm với nhiều thể loại: Chuyện thần thoại, chuyện cười, cổ tích, ngụ ngôn… chứa đựng những nét đậm đà, tiêu biểu sâu sắc cho cách nhìn, cách hiểu, những cảm xúc, tâm tư hoài bão của đồng bào các dân tộc. Những bản sử thi như trường ca Đam San, Xing Nhã, Đam Kteh… không những là niềm tự hào của nhân dân Dak Lak – Tây Nguyên, mà còn là những viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, cồng chiêng ở Dak Lak nói riêng, Tây Nguyên nói chung là di sản quý báu của đồng bào các dân tộc thiểu số và đã được Tổ chức Văn hóa – Khoa học – Giáo dục của Liên hợp quốc [UNESCO] công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại [25-11-2005]. Nói đến Tây Nguyên, cái tên Buôn Ma Thuột đã trở nên quen thuộc, gần gũi, bởi đây là thành phố lớn của khu vực Tây Nguyên, trung tâm chính trị, kinh tế – văn hóa – xã hội của tỉnh Dak Lak.      Theo tiến trình của cách mạng Việt Nam, Buôn Ma Thuột ngày càng nổi tiếng hơn bởi hào khí của Cách mạng tháng Tám năm 1945, bởi tinh thần đấu tranh chống Mỹ và tay sai trong những năm 1960, bởi chiến thắng Buôn Ma Thuột lẫy lừng 10-3-1975 “châm ngòi pháo đầu tiên cho chiến dịch đại thắng mùa xuân 1975”.      - Thành phố Buôn Ma Thuột có độ cao trung bình 500 mét so với mặt nước biển, với địa hình tương đối bằng phẳng và thoai thoải, thấp dần theo hướng Đông Bắc – Tây Nam; có nhiều sông, suối và hồ nước nhỏ, là vùng đất đỏ bazan thuận lợi cho việc định cư lâu dài của con người và phát triển cây trồng, nhất là cây công nghiệp và cây lương thực. Đồng thời, với nhiều đồng cỏ tự nhiên rộng có thể phát triển chăn nuôi gia súc với quy mô lớn. Cao Nguyên Dak Lak được các nhà địa chất xem là vùng giàu tiềm năng nhất Tây Nguyên, trong đó Buôn Ma Thuột là tiểu vùng thuận lợi nhất của cao nguyên này. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chủ yếu của Buôn Ma Thuột là các ngành cơ khí sửa chữa, chế biến cà phê, cao su, gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng v.v… Có thể nói, với những tiềm năng, nguồn lực sẵn có, Buôn Ma Thuột có đủ điều kiện phát triển toàn diện về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… để trở thành một thành phố giàu đẹp, hiện đại, văn minh, đầy hấp dẫn ở cao nguyên.      Buôn Ma Thuột cũng là nơi sinh sống, quần tụ của nhiều dân tộc anh em như: Kinh, Êđê, Giarai, M’nông, Thái, Tày, Nùng, Dao… Mỗi dân tộc có nếp sống văn hóa riêng rất đặc sắc, góp phần làm phong phú và đậm đà bản sắc văn hóa vùng Tây Nguyên.      Trải qua nhiều bước thăng trầm, biến động của lịch sử, Buôn Ma Thuột nay tròn 105 tuổi. Từ một vùng đất hẻo lánh, xa xôi, ít người biết đến thì nay đã trở nên thân quen, gần gũi, không những được nhân dân cả nước mà bạn bè quốc tế biết và tìm đến. Từ số dân gần 3 vạn người của những năm đầu thế kỷ XX, rồi tăng lên 13 vạn người sau năm 1975. Đến đầu năm 2004, trước yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước, của vùng Tây Nguyên, Quốc hội khóa XI đã ra Nghị quyết số 22 về việc chia tỉnh Dak Lak thành 2 tỉnh: Dak Lak và Dak Nông, hiện nay thành phố Buôn Ma Thuột có diện tích tự nhiên là 377,18 km2 [chiếm 2,87% diện tích toàn tỉnh Dak Lak], gồm 13 phường, 8 xã. Dân số hiện có gần 330.000 người, với 31 thành phần dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 15% dân số toàn thành phố.      Dak Lak là một tỉnh có 41 dân tộc anh em cùng sinh sống và trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã đoàn kết bên nhau, chung lưng, đấu cật, ứng phó với thiên nhiên, vượt qua mọi khó khăn thử thách để xây dựng cuộc sống. Từ môt vùng đất hoang sơ, là nơi “rừng thiêng, nước độc”, nhưng với đức tính cần cù, lao động sáng tạo, tinh thần đoàn kết tạo ra một vùng đất phì nhiêu màu mỡ và trở thành miền đất lành để hôm nay là nơi hội tụ của mọi miền quê Tổ quốc. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, người dân Dak Lak đã khai phá, xây dựng tạo nên một cao nguyên Dak Lak trù phú và tươi đẹp như ngày hôm nay.      2- Lịch sử hình thành và những thay đổi về địa phận hành chính tỉnh Dak Lak:      * Trước năm 1904:      Dak Lak là cao nguyên rộng lớn nhất nằm ở trung tâm Tây Nguyên, theo các nguồn tài lệu, nhiều bộ chính sử và tư sử của nước ta, vùng đất Tây Nguyên trong đó có Dak Lak đã được biết đến với những tên gọi khác nhau.      Sách Đại Nam thực lục cho biết: “Nước Thủy xá, Hỏa xá xưa gọi là Nam Bàn, là dòng dõi Chiêm Thành, thời Lê Thánh Tông đánh được Chiêm thành [năm 1471] lấy con cháu Vua nước ấy gọi là nước Nam Bàn, ở phía tây núi Thạch bi” [Đại Nam thực lục chính biên, NXB khoa học XH – năm 1970 tập 23 trang 145,146]. Sách Đại Nam liệt truyện [mục nước Thủy xá, Hỏa xá] cũng chép: “Thủy xá, Hỏa xá ở phía trên nước Nam Bàn, thời Lê Thánh Tông đánh được nước Nam Bàn, cắt đất từ núi Thạch Bi trở về phía Tây ban cho, có hơn năm mươi thôn lạc, trong nước có núi Bà Nam rất cao, Thủy vương ở phía đông núi, Hỏa vương ở phía Tây núi” [Đại Nam liệt truyện. NXB Thuận Hóa, Huế 1993 tập 2 trang 586].      Trên cơ sở những tư liệu lịch sử, dười thời triều Nguyễn ghi chép, cho chúng ta được biết Tây Nguyên trước khi nằm dưới tầm kiểm soát của thực dân Pháp, là địa bàn của hai nước Thủy xá và Hỏa xá dưới triều Nguyễn [1802 – 1884]. Ngược dòng thời gian, trước đó từ năm 1150, người Chiêm Thành đã từng tiến quân chiếm đóng một phần đất Tây Nguyên, theo kết quả của những đợt khai quật khảo cổ học gần đây, cho ta thấy ảnh hưởng của người Chăm đã lan tận đến thung lũng sông Ba và khu vực người Gia Rai, Êđê, các khu vực Thủy xá, Hỏa xá và cả vùng Dak Lak sau này. Những tháp Yan Mum, Drang lai gần Cheo reo, các Ra sung ba tau [thùng lớn để làm bể rửa] vẫn còn nguyên ở Buôn Ma Thuột, đông Plâyku, tường thành ở Ea H’leo, còn nhiều di tích rõ nét, đó là những dẫn chứng cụ thể của một thời người Chăm sống ở Tây Nguyên, ngoài ra còn có một con đường do người Chăm mở ra để tiện việc hành quân và kiểm soát vùng Tây Nguyên đó là con đường đi từ Kon Tum xuống Quảng Nam còn bỏ dở.      Như vậy, vùng đất Tây Nguyên nói chung và Dak Lak nói riêng có từ lâu đời, nhất là từ sau cuộc chiến tranh mở đất về phía Nam của Lê Thánh Tông [năm 1471] đã nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước quân chủ Việt Nam, và cũng từ cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX, về danh nghĩa là Vua hai nước Thủy xá và Hỏa xá nhưng thực tế đã phần nào chịu ảnh hưởng của những chính sách cai trị của Vua chúa Việt Nam, nhất là từ thời Viên trấn thủ Quang Nam, Bùi Tá Hán [cuối thế kỷ 16] trở đi đến thời dưới triều Nguyễn thế kỷ XIX [1802-1884]. Nhận thấy vị trí trọng yếu về chính trị, quân sự của vùng đất Dak Lak – Tây Nguyên, đó là vùng đệm giữa nước Việt Nam – Đại Nam với Lào, Cao Miên, Xiêm la [Thái Lan] nên các Vua Nguyễn nhất là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã để tâm đến nhiều hơn. Chính sử triều Nguyễn đã chứng minh cụ thể về quan hệ bang giao thời kỳ này, trong đó các viên sứ bộ của hai nước đi lại nhiều lần, đã chứng minh sự quan tâm đặc biệt của các Vua Nguyễn đối với vùng đất Dak Lak – Tây Nguyên. Nhìn chung, lúc bấy giờ khu vực Tây Nguyên trong đó có Dak Lak còn là một vùng rất xa lạ và bí hiểm đối với người Kinh, ít ai dám lui tới vì các ngôn ngữ, khác phong tục tập quán, chính vì vậy mà người Pháp đã chú ý đến Tây Nguyên, coi Tây Nguyên là mục tiêu để những tên gián điệp khoác áo giáo sĩ đặt chân lên mảnh đất này. Sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ từ 1862 và ba tỉnh Miền Tây năm 1867, bằng việc tổ chức các đoàn thám hiểm để tìm cách xâm nhập vào vùng nội địa của Tây Nguyên và ngày 22-1-1891 đến được Bản Đôn loại trừ được quân đội Xiêm, kiểm soát được toàn khu vực.      Ngày 3-10-1893 một Hiệp ước Pháp – Xiêm được ký kết, thừa nhận quyền của nước Pháp trên phần đất nằm ở tả ngạn sông Mê Kông. Trong đó có Cao Nguyên [gọi là Hin truland].      Ngày 1-6-1895 thống sứ Lào là Boulloche chia lãnh thổ Lào thành hai vùng riêng biệt, một gọi là Thượng Lào đóng trụ sở tại Luông Prabang, và một gọi là Hạ Lào đóng trụ sở tại    Kong của Stung Streng, Cao Nguyên Hin truland được sát nhập vào 3 tỉnh là Strung Streng trong đó địa bàn Dak Lak, tỉnh Alopen và tỉnh Saravane.      Ngày 16-10-1898 Khâm sứ Trung kỳ Bovelloche buộc triều đình Huế sắp đặt vùng Tây Nguyên dưới sự đặc trách của người Pháp.      Ngày 31-1-1899 toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định thành lập một cơ sở hành chính tại Bản Đôn, trên bờ sông Sêrêpôk trực thuộc tỉnh Strung Streng với mục đích thể hiện quyền cai trị của nước Pháp trên thung lũng này và để kiểm soát người dân tộc Djarai cũng như tạo sự dễ dàng cho việc buôn bán giữa Lào và Trung kỳ. Ngày 2-11-1899 viên quản nhiệm Bovrglocs lập ra hạt đại lý khu vực Bản Đôn với mục đích làm thí điểm trong công cuộc bình định Cao Nguyên trung phần tìm cách thu phục đồng bào Êđê, M’nông [nhóm Kpă và Bih] vùng hạ lưu sông Krông Ana và Krông Nô, nhưng tất cả ý đồ đó đều thất bại.      Ngày 22-11-1904 Hội đồng tối cao toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định tách Dak Lak khỏi địa bàn nước Lào và đặt thành một tỉnh thuộc quyền giám sát và quản trị Khâm sứ Trung Kỳ [sứ An Nam] cũng thời gian này [ngày 22-11-1904] tỉnh Dak Lak được thành lập nằm trên đại bàn Miền Tây các tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, lấy tỉnh lỵ là Buôn Ma Thuột.      Như vậy với Nghị định ngày 22-11-1904, Dak Lak chính thức trở thành một trong 20 tỉnh, thành phố thuộc Trung kỳ, về địa giới hành chính tương đối ổn định cho đến những năm về sau [1954].      *Sau năm 1904 đến trước năm 1975:      Ngày 9-2-1913, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Kon Tum [trước là đại lý Kon Tum trực thuộc tòa công sứ Qui Nhơn], bao gồm đại lý Kon Tum tách khỏi tỉnh Bình Định, đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và đại lý Dak Lak [tỉnh Dak Lak bị giải thể hạ xuống làm một đại lý] thuộc tỉnh Kon Tum, từ đó tỉnh Dak Lak không còn nữa, nhưng địa danh vẫn còn.      Đến ngày 2-7-1923, toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định tách Dak Lak khỏi tỉnh Kon Tum và thành lập tỉnh riêng dưới quyền một viên công sứ tên là Sabalier, làm công sứ đầu tiên của tỉnh Dak Lak sau khi tái lập lại. Đến ngày 30-5-1930 địa bàn tỉnh Dak Lak được chia thành nhiều tổng [Secteus], trong đó có tổng tỉnh lỵ Buôn Ma Thuột.      Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, nước ta tạm thời bị chia làm hai miền Nam Bắc, chính quyền Sài Gòn chia trung phần thành Cao Nguyên trung phần và Trung Nguyên trung phần. Dak Lak thuộc Cao Nguyên trung phần. Trong 6 tỉnh thuộc Cao Nguyên trung phần thì Dak Lak có số quận nhiều nhất 5/20, số xã đứng thứ hai sau tỉnh Kon Tum 113/120.      Đến ngày 2-7-1958, Dak Lak có 5 quận gồm quận Buôn Ma Thuột, Lạc Thiện, M’Drak, Dak Song, Buôn Hồ.      Đến trước năm 1975, Dak Lak gồm có 4 quận Buôn Ma Thuột, Lạc Thiện, Buôn Hồ, Phước An. Tỉnh lỵ là thị xã Buôn Ma Thuột.      * Từ sau năm 1975 đến nay, đất nước thống nhất, tỉnh Dak Lak có những thay đổi như sau:      Tháng 2-1976 chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định giải thể khu và hợp nhất các tỉnh ở miền Nam, trong đó có tỉnh Dak Lak gồm cả tỉnh Dak Lak và tỉnh Quảng Đức cũ.      Đến năm 1988, Dak Lak có diện tích tự nhiên là 19.800 km2, dân số là 974.000 người, bao gồm thị xã Buôn Ma Thuột và 15 huyện: huyện Dak R’lấp, Dak Nông, Dak Mil, Ea Súp, Cư M’gar, Krông Ana, Krông Nô, Krông Pak, Ea Kar, M’Drak, Krông Bông, Lak, Ea H’leo, Krông Buk, Krông Năng. Những năm về sau thành lập thêm huyện Cư Jút [16-9-1990]; huyện Buôn Đôn [7-10-1995], Dak Song [21-6-2001].      Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, đến ngày 26-11-2003 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã ra Quyết định số 22/2003/QH XI, chia tách Dak Lak thành hai tỉnh Dak Lak và Dak Nông. Hiện nay, tỉnh Dak Lak có 1 thành phố Buôn Ma Thuột, 1 thị xã Buôn Hồ và 13 huyện là: Ea Súp, Buôn Đôn, Cư M’gar, Krông Buk, Ea H’leo, Krông Năng, M’Drak, Ea Kar, Krông Buk, Krông Bông, Krông Ana, Lak, Cư Kuin. 3 – Về lịch sử địa danh Buôn Ma Thuột:      Buôn Ma Thuột vốn có bề dày lịch sử từ lâu đời, nhiều tư liệu từ trước đến nay đã cho thấy vùng đất này tồn tại từ rất sớm. Dưới góc độ nghiên cứu về khảo cổ học Buôn Ma Thuột ít ra đã có 4.000 năm tuổi, điều này được tư liệu khảo cổ học khẳng định qua những dấu tích cư trú, làm nông của cư dân thời tiền sử. Qua tư liệu văn hóa tộc người đã có một Buôn Ma Thuột vài trăm năm tuổi và qua tư liệu sử học, đến nay Buôn Ma Thuột vừa tròn 105 năm hình thành và phát triển.      Buôn Ma Thuột dưới thời Pháp thuộc là Trung tâm của tỉnh Dak Lak, cũng là trung tâm của vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, đầu mối của nhiều đường giao thông. Sau khi tiến hành xâm lược và bình định được vùng Tây Nguyên, thực dân Pháp bắt tay vào việc xây dựng bộ máy thống trị. Sau khi ký thành lập tỉnh Dak Lak [22-11-1904], đồng thời chuyển tỉnh lỵ từ Bản Đôn về Buôn Ma Thuột. Lúc mới thành lập, chỉ có cấp tỉnh, còn ở cấp dưới vẫn là các buôn làng của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ.      Địa danh Buôn Ma Thuột là tên của một buôn đồng bào Êđê Kpă, vùng đất này vào cuối thế kỷ XIX chỉ có một buôn với khoảng năm chục nhà dài, mỗi nhà có từ 30 đến 40 người do người Tù trưởng Ama Thuột cai quản nằm bên dòng suối Ea Tam. Đến những năm đầu của thế kỷ XX, Buôn Ma Thuột không còn là một buôn đơn lẻ nữa mà đã quy tụ phát triển thêm hàng chục buôn khác. Tuy nhiên, Buôn Ma Thuột vẫn là một buôn lớn, trung tâm của cả vùng lúc bấy giờ và do Tù trưởng Ama Thuột, một người có thế lực và uy tín cai quản. Tên gọi Buôn Ma Thuột cũng bắt nguồn từ đó. Buôn Ma Thuột tức là làng của Ama Y Thuột – làng của cha Y Thuột [tiếng Êđê: Ama có nghĩa là cha, Y Thuột là chỉ người con trai tên Thuột – Buôn Ma Thuột là tên gọi tắt: làng của cha Y Thuột].      Sau gần một năm trở thành tỉnh lỵ của Dak Lak, Buôn Ma Thuột đã có nhiều thay đổi và được thể hiện trên tấm bản đồ Buôn Ma Thuột năm 1905. Trong nội thị đã có tòa công sứ, văn phòng làm việc, trại lính, nhà tù, bệnh xá, trường học…      Từ thời Sabachiê làm công sứ tỉnh Dak Lak [1923], thực dân Pháp đã đẩy mạnh việc xây dựng Buôn Ma Thuột để phục vụ cho chính sách thống trị lâu dài của chúng ở vùng đất này. Với những thay đổi to lớn nên ngày 5-6-1930, Khâm sứ Trung kỳ đã ký nghị định thành lập thị xã Buôn Ma Thuột.      Trưởng làng do công sứ phê duyệt và được hưởng phụ cấp.      Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Buôn Ma Thuột đã không ngừng phát triển, lớn mạnh về mọi mặt, từng bước trở thành một đô thị trung tâm của tỉnh Dak Lak và có vai trò quan trọng về nhiều mặt đối với cả nước nói chung và khu vực Tây Nguyên nói riêng.

     Ngày 21-1-1995, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ra Quyết định số 08-CP thành lập thành phố Buôn Ma Thuột, đây là một dấu ấn quan trọng về sự trưởng thành và phát triển của Buôn Ma Thuột nói riêng và tỉnh Dak Lak nói chung. Từ một đô thị loại IV năm 1975, Buôn Ma Thuột đã phát triển thành đô thị loại III năm 1995, được công nhận đô thị loại II năm 2005. Đầu năm 2010, Buôn Ma Thuột được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Dak Lak. Đó là thành quả của sự phấn đấu không ngừng của Đảng bộ, quân và dân thành phố Buôn Ma Thuột trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời sự ghi nhận, phần thưởng xứng đáng của Đảng, Nhà nước về những đóng góp không nhỏ của đồng bào các dân tộc Buôn Ma Thuột nói riêng, Dak Lak nói chung trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

//baodaklak.vn/

Video liên quan

Chủ Đề