So sánh tử cấm thành với kinh thành huế
Hoàng thành Huế, nơi đặt các công trình kiến trúc quan trọng nhất của triều Nguyễn (1802-1945), là một phần quan trọng thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới 12/1993. Trải qua 143 năm, nơi đây từng tồn tại khoảng 150 công trình thuộc 10 phân khu chức năng chính: Môn & Khuyết đài, Ngoại Triều, Tử Cấm Thành, Thái Miếu, Thế Miếu, Phụng Tiên Cung, Diên Thọ Cung, Trường Sanh Cung, Nội Vụ Phủ và Cơ Hạ Viên. Hiện nay, các công trình còn lại trong Hoàng Thành Huế không nhiều, khoảng 1/4 công trình đã được trùng tu và phục dựng, đa số các công trình chính đã bị sụp đổ hoàn toàn. Show Tóm tắt lịch sử triều Nguyễn và quá trình xây dựng Hoàng Thành HuếViệc thành lập vương quốc Đàng Trong tại vùng đất Thuận Hoá bắt đầu từ khi Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá năm 1558[1]. Từ đó đến 1777, các Chúa Nguyễn không ngừng xây dựng thành một thế lực độc lập và mở mang bờ cõi về phía Nam. Năm 1802, Chúa Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn (1778-1802), lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long, lập nên nhà Nguyễn (1802-1945). Đồ án xây dựng Kinh Thành (京城) Huế do đích thân Hoàng đế Gia Long thiết kế từ năm 1803[2]. Để xây dựng Kinh Thành Huế, Hoàng đế Gia Long đã cho di dời 9 ngôi làng trong khu vực Kinh Thành ngày nay, cải tạo và nắn dòng chảy các sông tự nhiên để thiết lập hệ thống thủy đạo liên hoàn trong Kinh Thành Vòng thành của Kinh Thành Huế được thiết kế theo thức Vauban (Star shaped Citadel), là nơi đặt các cơ quan hành chính, quân sự triều Nguyễn, nơi sinh sống của quan lại và dân binh. Bên trong vòng thành này là Hoàng Thành (皇城), có mặt bằng gần vuông, là nơi đặt cơ quan quan trọng nhất của triều Nguyễn. Bên trong Hoàng Thành là Tử Cấm Thành (紫禁城), nơi sinh sống và làm việc của Hoàng đế, Hoàng gia và Nội các triều Nguyễn Lịch sử xây dựng Hoàng Thành Huế có thể chia làm 4 giai đoạn như sau:
Hiện trạng của Kinh Thành Huế sau 1805 Quy hoạch không gian chức năng Mặt bằng Hoàng Thành Huế có hình dạng gần vuông, với tường thành phía Đông và Tây dài 155 trượng 5 thước (khoảng 622m); tường thành phía Bắc và Nam dài 151 trượng (khoảng 604m); chiều cao 1 trượng 5 tấc (khoảng 4,2m) và dày 2 thước 6 tấc (khoảng 1,04m) [2,3]. Hoàng Thành Huế gồm có 10 hạng mục/khu vực chức năng như sau:
Nhìn chung, Tổng thể Hoàng Thành Huế đã được quy hoạch theo một trật tự nghiêm ngặt, các khu vực chức năng được bố trí đăng đối qua trục Dũng Đạo (trục chính) của Hoàng Thành, trục này nối từ chính giữa của tường thành phía Bắc đến chính giữa tường phía Nam. Trên trục Dũng Đạo, các khu vực chức năng tối quan trọng của triều Nguyễn được bố trí gồm khu vực Ngoại Triều và Tử Cấm Thành. Các khu vực chức năng khác được bố trí đối xứng tương đối ở 2 bên Đông – Tây của trục Dũng Đạo, có tường bao quanh tạo thành từng khu vực độc lập với các chức năng thờ cúng và sinh hoạt của Hoàng gia. Kinh Thành Huế (theo B.A.V.H 1933) Đặc điểm kiến trúc công trình Các công trình trong Hoàng Thành Huế có công năng đa dạng gồm: thờ cúng, làm việc, ăn ở, giải trí, kho,… những công trình này được đặt thành những nhóm tên theo chữ Hán gồm: Miếu, Điện, Đường, Vu, Lâu, Các… đồng thời, có những biểu hiện khác nhau về hình dạng mặt bằng, cấu trúc mặt cắt, hình thức mái, chiều cao, trang trí, vật liệu sử dụng… Các công trình ở trong Hoàng Thành Huế về cơ bản có dạng mặt bằng hình chữ nhật, hình vuông và hình bát giác. Các công trình quan trọng nhất dành cho Hoàng đế có mặt bằng hình chữ nhật, gồm 2 hoặc 3 toà nhà kết nối với nhau cùng đặt trên một nền móng và có 2 tầng mái theo kiểu “Trùng Thiềm Điệp Ốc”, những công trình còn lại có mặt bằng đơn dạng hình chữ nhật hoặc hình vuông có 1 hoặc 2 tầng mái, là những kiến trúc dân dụng Hoàng gia. Nền công trình được làm bằng đá, mặt nền lát gạch bát tràng có tráng men xanh hoặc men vàng, hệ kết cấu chịu lực công trình vào giai đoạn đầu của triều Nguyễn (thời Gia Long đến nửa đầu thời Tự Đức) được làm bằng các loại gỗ quý hiếm như: đinh, lim, sến, táu… Vào giai đoạn sau của triều Nguyễn (nửa sau thời Tự Đức đến thời Bảo Đại) có sử dụng thêm gạch hoa, kết cấu bê tông cốt thép (bê tông vôi xi măng và thép bản), tường xây gạch. Mái được lợp bằng các loại ngói như: thanh lưu ly, hoàng lưu ly (đối với những công trình có đẳng cấp cao), ngói âm dương hoặc ngói liệt (đối với những công trình có đẳng cấp thấp hơn). Một số thuật ngữ kiến trúc cơ bản: nghiên cứu chọn Thái Hoà Điện, một công trình quan trọng còn lại đến ngày nay làm trường hợp nghiên cứu điển hình, một số thuât ngữ kiến trúc cơ bản được thể hiện qua mặt bằng và mặt cắt Thái Hoà Điện như sau: Mặt bằng Hoàng Thành Huế (theo B.A.V.H 1928) Sự phân cấp và các loại hình kiến trúc Cung ĐiệnSự phân cấp kiến trúc: Căn cứ vào mô tả từ các nguồn sử liệu của triều Nguyễn, sự phân cấp của các loại hình kiến trúc trong Hoàng Thành Huế được nhận biết một cách rõ ràng bằng những từ nguyên chữ Hán bao gồm:
Các loại hình kiến trúc Cung Điện: Dựa trên sự phân cấp ở trên và thông qua việc phân tích không gian mặt bằng, cấu trúc mặt cắt của các công trình, hình thức kiến trúc Cung Điện trong Hoàng Thành được nhận diện qua các loại hình sau: 1. Kiến trúc Miếu
2. Kiến trúc Điện
3. Kiến trúc Cung Các
Một số công trình tiêu biểu cho các kiểu kiến trúc trong Hoàng thành Huế Kết luậnKiến trúc Cung Điện trong Hoàng thành Huế từng tồn tại một số lượng lớn, tuy nhiên xét theo từng nhóm tên gọi thì có 23 tên gọi cho các thể loại: Miếu, Điện, Phủ, Đường, Vu, Viện… Việc phân cấp 23 thể loại này thành 14 cấp bậc nhằm làm rõ nguyên tắc bố trí các công trình kiến trúc trong từng khu vực của Hoàng Thành nói riêng và tổng thể Hoàng Thành Huế nói chung. Đồng thời, thông qua phân tích không gian mặt bằng và cấu trúc mặt cắt có thể nhóm các loại hình kiến trúc đó thành 3 nhóm kiến trúc chính: kiến trúc Miếu, Điện và Cung Các. Với mỗi nhóm kiến trúc chính có những dạng cấu trúc cơ bản để bước đầu nhận diện quy chế trong thiết kế kiến trúc Cung Điện triều Nguyễn. |