Chính sách quân điền của Trung Quốc

Quân điền chế [tiếng Trung: 均田制] là một thể chế về sở hữu và phân phối đất đai trong lịch sử Trung Quốc từ thời Lục triều đến giữa thời nhà Đường.

Thời nhà Hán, chế độ Tỉnh điền dần đã không còn được sử dụng ở Trung Quốc, mặc dù các nhà cải cách như Vương Mãng đã cố gắng khôi phục nó. Thay vào đó, chế độ Quân điền được đưa vào áp dụng vào khoảng năm 485, do Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế áp dụng tại một vương quốc không phải người Hán ở Bắc Trung Quốc, trong thời kỳ Nam - Bắc triều. Thể chế này cuối cùng đã được các triều đình khác chấp nhận và tiếp tục sử dụng nó qua các triều đại Tùy - Đường.[1][2][3]

Mục lục

  • 1 Nền tảng
  • 2 Sự sụp đổ
  • 3 Ảnh hưởng ở Nhật Bản
  • 4 Chú thích

Nền tảngSửa đổi

Thể chế này hoạt động trên cơ sở hầu hết đất đai thuộc sở hữu của triều đình, sau đó sẽ giao cho các gia đình quản lý. Mỗi cá nhân, kể cả nô lệ, được hưởng một diện tích ruộng đất nhất định, tùy thuộc vào khả năng cung ứng lao động của họ. Ví dụ, những người đàn ông khỏe mạnh đã nhận được 40 mẫu đất [tương đương khoảng 1,1 ha hoặc 2,7 mẫu Anh], trong khi phụ nữ nhận được ít hơn, và nhiều khoản đất được cấp thêm một con bò thuộc sở hữu của gia đình. Sau khi người được giao quản lý đất chết, đất sẽ được giao lại cho triều đình để được phân phối lại, mặc dù các điều khoản được cho phép để thừa kế đất cần phát triển lâu dài, chẳng hạn như trang trại cho dâu tằm [đối với tằm].

Thế chế này được dự định để thúc đẩy sự phát triển của đất đai và để đảm bảo rằng không có đất nông nghiệp nào bị bỏ hoang. Điều này ngăn cản giới quý tộc phát triển các cơ sở quyền lực lớn bằng cách độc quyền các lĩnh vực, và cho phép người dân thường tham gia vào canh tác và đảm bảo sinh kế của họ. Từ những điều này, triều đình đã có thể phát triển một cơ sở thuế và làm chậm quá trình tích tụ đất đai bằng những bất động sản rộng lớn. Điều này cũng được các triều đại nhà Đường sử dụng để phá vỡ chu kỳ triều đại. Chu kỳ triều đại là ý tưởng rằng tất cả các triều đại sẽ chấm dứt và điều này sẽ ngăn chặn nó bằng cách người dân nhận được đất từ triều đình; điều này làm cho họ cảm thấy như triều đình đã cho họ một cái gì đó mặc dù nó không bao giờ rời đi.

Sự sụp đổSửa đổi

Thể chế này cuối cùng cũng ngừng áp dụng sau loạn An Sử, khi triều đình bắt đầu mất quyền kiểm soát tập trung đối với các lãnh thổ của mình. Mặc dù tất cả các vùng đất trên lý thuyết thuộc về triều đình, các gia đình quý tộc đã có thể có được đất đai một cách hợp pháp và có thể xây dựng tài sản của họ. Các tự viện Phật giáo cũng vậy, đã kiểm soát nhiều khu ruộng đất rộng lớn. Nông dân thường làm thuê cho các gia đình địa chủ và trở thành nông nô hoặc nô tỳ trong thời gian xảy ra thiên tai và xung đột để đảm bảo an ninh của chính họ. Việc mất dần đất đai chịu thuế là một lý do cho sự suy tàn của nhà Đường. Mô hình địa chủ giữ đất do nông dân thuê canh tác sẽ tiếp tục trong suốt phần còn lại của lịch sử Trung Quốc cho đến khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949.

Ảnh hưởng ở Nhật BảnSửa đổi

Chế độ Quân điền đã được Nhật Bản áp dụng do kết quả của cải cách Taika do Thánh Đức Thái tử thực hiện [xem Ritsuryō], mặc dù vẫn còn tranh cãi về mức độ áp dụng thực sự. Các hành tỉnh gần kinh đô bị quản lý và đánh thuế chặt chẽ hơn, khiến nông dân phải chạy trốn đến các hành tỉnh xa xôi. Ở Nhật Bản cũng vậy, thể chế này không còn được sử dụng khi đất đai trở lại sở hữu tư nhân; các sắc chỉ năm 723 cho rằng các vùng đất mới phát triển có thể được thừa kế trong ba thế hệ trong khi một nghị định sau đó vào năm 743 cho phép các vùng đất phát triển này được giữ vĩnh viễn. Đến năm 800, kế hoạch phân phối lại đất đai thực tế đã bị hủy bỏ do điều tra dân số và phân phối trở nên không thường xuyên. Tuy nhiên, thể chế này vẫn tồn tại, ít nhất là trên lý thuyết, trong nhiều năm sau đó.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Charles Holcombe [tháng 1 năm 2001]. The Genesis of East Asia: 221 B.C. - A.D. 907. University of Hawaii Press. tr.136–. ISBN978-0-8248-2465-5.
  2. ^ David Graff [ngày 2 tháng 9 năm 2003]. Medieval Chinese Warfare 300-900. Routledge. tr.140–. ISBN978-1-134-55353-2.
  3. ^ Dr R K Sahay [ngày 24 tháng 5 năm 2016]. History of China's Military. Vij Books India Pvt Ltd. tr.103–. ISBN978-93-86019-90-5.

     Thời trung đại, ở Trung Quốc có hai hình thái sở hữu ruộng đất cùng tồn tại đó là ruộng đất của nhà nước và ruộng đất của tư nhân.


Ruộng đất của nhà nước


     Bộ phận ruộng đất thuộc quyền quản lí trực tiếp của nhà nước trong sử sách Trung Quốc thưởng được gọi bằng các tên như công điền, vương điền, quan điền v.v… Nguồn gốc của loại ruộng đất này, ngoài bộ phận ruộng đất vốn có của nhà nước cởn có ruộng đất vắng chủ sau những thời kì chiến tranh loạn lạc. Trên cơ sở quyền sở hữu của mình, các triều đại phong kiến đem ban cấp cho quý tộc quan lại làm bổng lộc và tổ chức thành đồn điền, điển trang để sản xuất hoặc chia cho nông dân dưới hình thức quân điền để thu tô thuế. Trong các chính sách xử lí ruộng đất công đáng chú ý nhất là chế độ quân điền tồn tại từ cuối thế kỉ V đến cuối thế kỉ VIII.



     Vào thời Nam Bắc triều, ở miền Bắc Trung Quốc, do chiến tranh, đói kém, địa chủ cũng như nông dân, nhiều người phải rởi bỏ quê hương đi nơi khác, do đó ruộng đất bỏ hoang rất nhiều, việc sản xuất nông nghiệp bị đình đốn. Trước tình hình ấy, học tập kinh nghiệm thống trị của các triều đại phong kiến Hán tộc, năm 485, vua Hiếu Văn đế của triều Bắc Ngụy [thuộc tộc Tiên Ti] ban hành chế độ quân điền, mục đích nhằm khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, bảo đảm nguồn thuế khoá cho nhà nước. Sau Bắc Ngụy, các triều Bắc Tề, Tuỳ, Đường đều tiếp tục thi hành chính sách quân điển với những nội dung có ít nhiều thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của từng thời kì.


     Tuy về quy định cụ thể, chính sách quân điền của các triều đại nói trên có ít nhiều khác nhau, nhưng tinh thần chung của chế độ đó là :


-         Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lí chia cho nông dân cày cấy.


     Thời Bắc Ngụy, đàn ông từ 15 tuổi trở lên được cấp 40 mẫu ruộng trồng lúa [lộ điền] và 20 mẫu ruộng trông đâu, đàn bà được cấp 20 mẫu ruộng trông lúa ; nô tì cũng được cấp như người tự do ; bở cày được cấp mỗi con 30 mẫu. Nếu ruộng thuộc loại đất phải để nghỉ một hay hai nămthì được nhân gấp đôi hoặc gấp ba.


    Còn thời Đường thì quy định đàn ông từ 18 tuổi trở lên được cấp 80 mẫu ruộng trông lúa gọi là ruộng khẩu phần và 20 mẫu ruộng trông dâu gọi là ruộng vĩnh nghiệp ; cụ già, người tàn tật, ốm yếu được cấp 40 mẫu ruộng khẩu phần ; bà goá được cấp 30 mẫu ruộng khẩu phần, nếu là chủ hộ thì dược cấp nửa suất của tráng đinh.


- Các quan lại, tuỳ theo chức vụ cao thấp được cấp ruộng đất bổng lộc, Thời Bắc Ngụy, quan lai thấp nhất được 6 khoảnh, 1 khoảnh bằng 100 mẫu], cao nhất được 15 khoảnh Thời Đường, quý tộc, quan lại tuỳ theo địa vị, công lao, chức tước mà được ban cấp ruộng vĩnh nghiệp, ruộng thưởng công và ruộng chức vù Ruộng vĩnh nghiệp ban cho những quý tộc được phong tước và các quan tù ngũ phẩm trở lên, ít nhất là 5 khoảnh, nhiều nhất là 100 khoảnh ruộng thưởng công ban cho những người có chiến công, ít nhất được 60 mẫu nhiều nhất được 30 khoảnh ; ruộng chức vụ ban cho các quan lại làm lương bổng, ít nhất là 80 mẫu, nhiều nhất là 12 khoảnh.


- Ruộng trồng lúa đến 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước, còn ruộng trồng dâu, ruộng vĩnh nghiệp được truyền cho con cháu. Ruộng chức vụ của quan lại khi thôi chức phải giao lại cho người kế nhiệm. Trừ ruộng ban thưởng cho quý tộc, quan lại được tự do mua bán, còn nói chung ruộng cấp cho nông dân là không được chuyển nhượng. Nhưng trong một số trường hợp đặc biệt như nông dân thiếu hoặc thừa ruộng trồng dâu hoặc gia đình có việc tang ma mà quá nghèo túng thì có thể mua bán ruộng trông dâu; hoặc nông dân dời chỗ ở từ nơi ít ruộng đất đến nơi nhiều ruộng đất thì được bán cả ruộng khẩu phần.


Đọc thêm tại: //lichsuthegioi.blogspot.com/2015/06/phat-trien-cua-thuong-nghiep-trung-quoc.html

Từ khóa tìm kiếm nhiều: lịch sử thế giới

Video liên quan

Chủ Đề