Các bộ phận hợp thành văn học việt nam năm 2024

Văn học Việt Nam gồm hai bộ phận là văn học dân gian và văn học viết. Hai bộ phận này đều mang những đặc điểm truyền thống của văn học Việt Nam (tinh thần yêu nước chống xâm lược, tinh thần nhân văn, đề cao đạo lý, nhân nghĩa). Tuy nhiên hai bộ phận cũng có những đặc trưng riêng.

Văn học dân gian

– Đặc trưng của văn học dân gian:

+ Ra đời từ rất sớm, khi con người chưa có chữ viết. Là tiếng nói tình cảm, kết tinh trí tuệ chung của nhân dân được truyền từ đời này sang đời khác.

+ Mang tính tập thể, tính truyền miệng, tính thực hành.

+ Là cuốn “Bách khoa toàn thư” của cuộc sống lao động và tình cảm của nhân dân, có giá trị nhiều mặt.

+ Là một bộ phận quan trọng của nền văn học dân tộc, là cơ sở, nền tảng cho văn học viết hình thành và phát triển.

– Các thể loại của văn học dân gian:

+ Các thể loại chính gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, truyện thơ… các loại hình diễn xướng như chèo, tuồng, dân ca…

Văn học viết

Khái niệm: Văn học viết là văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX (văn học trung đại) và văn học từ đầu thế kỉ XX đến nay (văn học hiện đại).

– Văn học viết ra đời khi đã có chữ viết, được lưu giữ bằng văn tự (chữ viết).

– Là những sáng tác của cá nhân nên mang dấu ấn phong cách của từng tác giả.

– Tuy ra đời muộn (khoảng thế kỷ X), song văn học viết trở thành bộ phận văn học chủ đạo, giữ vị trí thống trị trong nền văn học nước nhà.

_ Từ đầu TK XX đến nay : ranh giới giữa loại hình và loại thể VH tương đối rạch ròi . Loiaj hình tự sự có tiểu thuyết , truyện ngắn , ký .Loại hình trữ tình có thơ trữ tình và trường ca . Loại hình kịch có nhiều thể loại như kịch nói, kịch thơ , ...

Văn học Việt Nam là khoa học nghiên cứu, phê bình và sáng tác ngữ văn của người Việt Nam, không kể quốc tịch và thời đại.

Khái quát[sửa | sửa mã nguồn]

Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết, nền văn học Việt Nam mới bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.

Văn học thành văn chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có tác động trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.

Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống văn học dân gian Việt Nam gồm có: sử thi, truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, thơ, chèo.

Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục "dòng chảy" của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.

Thể loại[sửa | sửa mã nguồn]

Trước thời kì Đổi Mới, văn học Việt Nam thường được chia thành hai thể loại khẩu truyền và thành văn, về sau có nhiều xu hướng phê bình và nghiên cứu mới nên dòng văn học trở nên phân nhánh rất phức tạp.

Văn học dân gian[sửa | sửa mã nguồn]

Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho tới ngày nay.

Ba thuật ngữ sau đây được xem là tương đương: Văn học dân gian, sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân dân, folklore ngôn từ (folklore văn học).

  • Tính nguyên hợp: Biểu hiện ở sự hòa lẫn những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại. Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau, tồn taị dưới 3 dạng: ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác giả dân gian), cố định (tồn tại bằng văn tự) và hiện (tồn tại thông qua diễn xướng).
  • Tính tập thể: Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm.
  • Tính truyền miệng: Văn học dân gian được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức truyền miệng (kể chuyện).
  • Tính dị bản: Văn học dân gian là sáng tác tập thể và nó không được cố định trong một văn bản, nên khi lưu truyền sang các vùng không gian khác nhau thì nó dần dà thay đổi.

Các đặc trưng trên có liên quan chặt chẽ với nhau. Tạo ra nét đặc trưng của Văn học dân gian so với văn học viết.

Văn học thành văn (văn học viết)[sửa | sửa mã nguồn]

Các bộ phận hợp thành văn học việt nam năm 2024
Áng văn Nôm Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị dưới tựa Thúy Kiều Truyện tường chú viết bằng kiểu chữ lệ thư do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967.
Các bộ phận hợp thành văn học việt nam năm 2024
Một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam: Đại Việt sử ký toàn thư, Quốc âm Thi tập, Hồng Đức bản đồ (từ trái sang phải). Xem thêm bài Lịch sử các loại chữ viết Việt Nam

Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" (Đặng Thai Mai). Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.

Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã có nền văn hóa với nhiều nét cá tính khá rõ rệt, thể hiện qua nhiều thần thoại và truyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc tiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu của tiếng Việt mà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.

Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.

Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳ nước Việt giành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệ Nho giáo lúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau thời gian dài văn-sử-triết bất phân. 3 dòng tư tưởng Nho-Phật-Lão trở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất nhân tình.

Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể – tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theo Dương Quảng Hàm (trong quyển Văn học Việt Nam) thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:

  • Vận văn: tức loại văn có vần
  • Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối (như câu đối)
  • Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.

Cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật (văn chương bình dân) và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều (của Nguyễn Du) được xem là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.

Từ khi có việc truyền bá chữ Quốc ngữ vào Việt Nam, diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông, sự thâm nhập của phương Tây mang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: Văn học trung đại và văn học hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:

  • Thời kỳ văn học trung đại (từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19) gồm: tự sự và trữ tình.
  • Thời kỳ văn học hiện đại (từ đầu thế kỷ 20 đến nay) gồm: tự sự, trữ tình, kịch.

Văn học mạng[sửa | sửa mã nguồn]

Từ đầu thập niên 2000, khái niệm "web fiction" đã xuất hiện trong các giáo trình và luận văn khoa học đa cấp độ dưới tên gọi văn học mạng. Nghĩa là gồm các tác phẩm hoặc luận văn phê bình được xuất bản trên không gian ảo, tức là internet và intranet. Theo sức phát triển nhanh của làn sóng công nghệ thông tin toàn cầu, dòng văn học này không được xếp vào dạng khẩu truyền hay thành văn, mà tồn tại độc lập nhưng vẫn có sự tương hỗ với các thể loại lâu đời hơn này. Một tác phẩm tiêu biểu ở giai đoạn sơ khởi văn học mạng là bài thơ Đôi dép của tác giả Nguyễn Trung Kiên, thường được giới khảo cứu dẫn chứng như một thành công của sức ảnh hưởng công nghệ thông tin cao đối với sự phổ biến văn phẩm. Đồng thời, dòng văn học này cũng được coi là nhân tố quyết định quảng bá văn học và ngôn ngữ Việt Nam ra quốc tế - điều mà trước thế kỷ XXI có tầm ảnh hưởng rất kém.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Các bộ phận hợp thành văn học việt nam năm 2024
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Văn học Việt Nam.

  • Ngôn ngữ Việt Nam
  • Triết học Việt Nam
  • Nghệ thuật Việt Nam
  • Văn hóa Việt Nam

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

George Cœdès The Making of South East Asia 1966- Page 87 "No work of literature from the brush of a Vietnamese survives from the period of Chinese rule prior to the rise of the first national dynasties; and from the Dinh, Former Le, and Ly dynasties, all that remains are some poems by Lac Thuan (end of the tenth century), Khuong Viet (same period), and Ly Thuong Kiet (last quarter of the eleventh century). Those competent to judge consider these works to be quite up to the best standards of Chinese literature.

văn học Việt Nam có bao nhiêu bộ phận?

học Việt Nam gồm hai bộ phận là văn học dân gian và văn học viết. Hai bộ phận này đều mang những đặc điểm truyền thống của văn học Việt Nam (tinh thần yêu nước chống xâm lược, tinh thần nhân văn, đề cao đạo lý, nhân nghĩa).

văn học Việt Nam bao gồm những gì?

Hệ thống văn học dân gian Việt Nam gồm có: sử thi, truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, thơ, chèo.

văn học Việt Nam có bao nhiêu loại?

Dựa vào những loại nhu cầu này, chúng ta có 12 thể loại văn học dân gian truyền thống của Việt Nam: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, sử thi, truyện ngụ ngôn, truyện cười, ca dao tục ngữ, thành ngữ, vè, câu đố và chèo.

Văn học đương đại Việt Nam bắt đầu từ khi nào?

Như vậy, trong hình dung không tách rời lịch sử với văn hóa - xã hội - văn học nghệ thuật, chúng ta thấy mốc 1975 thực sự quan trọng với tiến trình văn chương Việt Nam. Từ 1975 đến nay, văn học nghệ thuật được định danh là văn học đương đại.