Tìm hiệu sự ra đời của nhà nước Văn Lang và Âu Lạc xã hội Văn Lang có mấy tầng lớp

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 4: tại đây

Giải Bài Tập Lịch Sử 4 Bài 1: Nước Văn Lang giúp HS giải bài tập, cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, chính xác, khoa học để các em có những hiểu biết cần thiết về lịch sử thế giới, nắm được những nét lớn của tiến trình lịch sử Việt Nam:

    • Vở Bài Tập Lịch Sử, Địa Lí, Khoc Học Lớp 4
    • Sách Giáo Viên Lịch Sử Và Địa Lí Lớp 4
    • Sách Giáo Khoa Lịch Sử Và Địa Lí Lớp 4

    Trả lời câu hỏi Lịch Sử 4 Bài 1 trang 12: Em hãy xác định trên lược đồ hình 1 những khu vực mà người Lạc Việt đã từng sinh sống?

    Trả lời:

    Khu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả là những khu vực mà người Lạc Việt đã từng sinh sống.

    Trả lời câu hỏi Lịch Sử 4 Bài 1 trang 12: Xã hội Văn Lang có những tầng lớp nào? Em thử vẽ sơ đồ thể hiện các tầng lớp đó?

    Trả lời:

    -Xã hội Văn Lang có những tầng lớp: Vua, lạc hầu, lạc tướng, lạc dân và nô tì.

    -Sơ đồ nhà nước Văn Lang:

    Tìm hiệu sự ra đời của nhà nước Văn Lang và Âu Lạc xã hội Văn Lang có mấy tầng lớp

    Câu 1 trang 14 Lịch Sử 4: Nước Văn Lang ra đời vào thời gian nào và ở khu vực nào trên đất nước ta?

    Trả lời:

    -Nước Văn Lang đời khoảng năm 700 trước công nguyên (TCN).

    -Ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện nay.

    Câu 2 trang 14 Lịch Sử 4: Dựa vào bài đã học, em hãy mô tả một số nét về cuộc sống của người Lạc Việt (bằng lời, bằng đoạn văn ngắn hoặc bằng hình vẽ).

    Trả lời:

    -Thời các vua Hùng, nghề chính của lạc dân là làm ruộng. Họ trồng lúa, khoai, đỗ, cây ăn quả, rau và dưa hấu. Họ cũng biết nấu xôi, gói bánh chưng, làm bánh giầy, làm mắm,…

    -Người dân biết đúc đồng làm vũ khí, đồ trang sức, làm gốm, đan rổ, dụng cụ gia đình,…

    -Đời sống tinh thần của nhân dân Văn Lang phong phú với nhiều phong tục như ăn trầu, nhuộm răng,…

    Câu 3 trang 14 Lịch Sử 4: Em biết những tục lệ nào của người Lạc Việt còn tồn tại đến ngày nay?

    Trả lời:

    -Ở các vùng núi, người dân vẫn ở nhà sàn để tránh thú dữ và họp nhau thành các làng, bản. Họ thờ thần Đất, thần Mặt Trời.

    -Tục nhuộm răng đen, ăn trầu, búi tóc,…

    Tên gọi Việt Nam
    Tìm hiệu sự ra đời của nhà nước Văn Lang và Âu Lạc xã hội Văn Lang có mấy tầng lớp
    2879–2524 TCN Xích Quỷ (truyền thuyết)
    2524–258 TCN Văn Lang
    257–179 TCN Âu Lạc
    204–111 TCN Nam Việt
    111 TCN–40 CN Giao Chỉ
    40–43 Lĩnh Nam
    43–203 Giao Chỉ
    203–544 Giao Châu
    544–602 Vạn Xuân
    602–679 Giao Châu
    679–757 An Nam
    757–766 Trấn Nam
    766–866 An Nam
    866–967 Tĩnh Hải quân
    968–1054 Đại Cồ Việt
    1054–1400 Đại Việt
    1400–1407 Đại Ngu
    1407–1427 Giao Chỉ
    1428–1804 Đại Việt
    1804–1839 Việt Nam
    1839–1945 Đại Nam
    1887–1954 Đông Dương
    (Bắc/Trung/Nam Kỳ)
    từ 1945 Việt Nam
    Bản mẫu chính
    Sinh vật định danh
    Lịch sử Việt Nam
    • x
    • t
    • s

    Tìm hiệu sự ra đời của nhà nước Văn Lang và Âu Lạc xã hội Văn Lang có mấy tầng lớp
    Loạt bài
    Lịch sử Đông Nam Á Bản đồ Đông Nam Á

    Đông Nam Á thời tiền sử

    Những nền văn minh đầu tiên
       Văn hóa Đông Sơn
       Văn hóa Sa Huỳnh
       Văn hóa Óc Eo
       Văn hóa Mã Lai
       Văn hóa Java
       Văn hóa Môn - Khmer
    Các vương quốc đầu đầu tiên
       Văn Lang (TK 7 TCN - 258TCN)
       Âu Lạc (258TCN-208TCN)
       Lâm Ấp (192 - 605)
       Phù Nam (1 - 630)
       Chân Lạp (550 - 717)
       Dvaravati (TK 6 - TK 11)
       Malayu (TK 4 - TK 7)
       Langkasuka (TK 4 - TK 7)
       Pan Pan (TK 4 - TK 7)
       Sailendra (732 - giữa TK 9)
       Medang (giữa TK 9 - 1049)
       Pyu (TK 3 - TK 9)
       Hariphunchai (TK 8 - TK 13)
    Các quốc gia phong kiến hình thành
       Đại Việt (938 - 1887)
       Chăm Pa (TK 7 - 1693)
       Vương quốc Khmer (877 - 1863)
       Pagan (TK 9 - TK 13)
       Sukhothai (1238 - 1448)
       Ayutthaya (1351 - 1767)
       Lan Na (1254 - TK 17)
       Lan Xang (1353 - TK 18)
       Kediri (1049 - 1221)
       Majapahit (1293 - 1527)
       Srivijaya (TK 8 - TK 13)
       Melaka (1402 - 1511)
    Giao lưu về văn hóa - tôn giáo
       Phật giáo đại thừa
       Phật giáo tiểu thừa
       Hindu giáo
       Hồi giáo
       Công giáo
       Ảnh hưởng của Ấn Độ
       Ảnh hưởng của Trung Hoa
    Thực dân hóa từ Châu Âu
       Thuộc địa Hà Lan
       Thuộc địa Bồ Đào Nha
       Thuộc địa Anh
       Thuộc địa Tây Ban Nha
       Thuộc địa Pháp
    Các phong trào dân tộc đầu thế kỷ 20
    Đông Nam Á hiện nay

    Xem thêm

    • Lịch sử Brunei
    • Lịch sử Campuchia
    • Lịch sử Đông Timor
    • Lịch sử Indonesia
    • Lịch sử Lào
    • Lịch sử Malaysia
    • Lịch sử Myanma
    • Lịch sử Philippines
    • Lịch sử Singapore
    • Lịch sử Thái Lan
    • Lịch sử Việt Nam
    sửa

    Văn Lang (chữ Hán: 文郎) là nhà nước đầu tiên theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các Hùng Vương.

    Cách gọi "Hùng vương", chữ Hùng có lẽ là từ chữ Lạc nhầm sang. Nguyên ở chữ Hán, chữ 駱 với chữ 雒 cùng một âm là lạc. Chữ Lạc 雒 này với chữ Hùng 雄 có mặt chữ rất giống nhau. Hoặc vì thế mà chữ Lạc 駱 này lẫn sang chữ Lạc 雒 này, rồi lại lẫn sang chữ Hùng 雄, cho nên Sử Việt Nam ghi là Hùng vương mà ở sách cổ của Trung Hoa thì lại ghi là Lạc vương.

    Trong Sử có chép về chức quan Lạc hầu 駱侯, Lạc tướng 駱將; Hai Bà Trưng cũng là con gái quan Lạc tướng ở Phong Châu. Cho nên rất có thể là từ chữ Lạc nhầm sang chữ Hùng. Sự nhầm lẫn đó, truyền nối đã lâu; nay người Việt đã quen gọi là Hùng vương nên không cần đổi lại, nhưng mà nên biết chữ "Hùng" đó vốn ban đầu là chữ "Lạc".

    Tên gọi

    Tên nước Văn Lang, theo một số suy đoán thì có khả năng, từ "Văn Lang" có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang, mà nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ chỉ một loại chim mà họ tôn kính như vật tổ.

    Trong truyền thống của người Mường, tổ tiên của họ là hai con chim Ay và Ua (hay Klang và Klao). Một cách tương tự, tên gọi của Mê Linh có nguồn gốc là Mling, cũng chỉ một loài chim. Cách giải thích này phù hợp với tên gọi của vùng đất: Bạch Hạc, "con hạc trắng", - Mê Linh nằm trong vùng đất này, - đồng thời cũng phù hợp với bức họa trình bày chim cao cẳng và người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim, trên các trống đồng[1]. Một điểm khác, chữ Hồng trong từ Hồng Bàng, thời kỳ thượng cổ của Kinh Dương vương, chỉ một loài chim nước thuộc họ chim Diệc.

    Sử liệu

    Theo bộ sử ký Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) viết rằng phần ngoại kỷ do sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15 chép rằng: Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông, sinh ra Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương, Lộc Tục lấy con gái Long Vương hồ Động Đình, đẻ ra Lạc Long Quân (theo truyền thuyết Lạc Long Quân là cháu 5 đời của Thần Nông). Kế tiếp Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh được 100 người con trai, 50 người theo Lạc Long Quân theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

    Theo truyền thuyết này, Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ vào khoảng năm 2879 TCN, sinh ra người con là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu cơ sinh được 50 người con theo mẹ lên núi phủ tuyết (Âu Việt) và 50 người con theo cha xuống biển (Lạc Việt). Con trưởng của Lạc Long Quân là Hùng Vương cai trị nước Văn Lang (bộ tộc Lạc Việt), truyền qua các đời vua Hùng và kết thúc vào năm 258 TCN (tức là thế kỷ thứ III TCN) bởi An Dương Vương (bộ tộc Âu Việt). An Dương Vương thống nhất 2 bộ tộc gọi là Âu Lạc. Vì vậy quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến.

    Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ Đại Việt sử ký toàn thư là bộ Đại Việt sử lược vào thế kỷ 13 thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Bách Việt (15 bộ) khác vào khoảng thế kỷ 7 TCN cùng thời với vua Chu Trang Vương của nhà Chu - Trung Quốc. Ông lên ngôi xưng hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Văn Lang.[2] Về sau các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia Trung Quốc nên gọi kinh đô thời Văn Lang là Phong Châu.[3] Trong bộ Việt sử lược có dành những dòng sau cho các vua Hùng

    "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút."[4]

    Sách An Nam chí lược (tức An Nam chí nguyên) của Cao Hùng Trưng cho rằng: "Đất Giao Chỉ từ khi chưa đặt có quận huyện, chỉ có ruộng của dân giống Lạc, theo nước trào lên xuống mà cấy lúa; có vua giống Lạc (Lạc vương) thống trị dân; có tướng giống Lạc (Lạc tướng) là quan để giúp vua. Vua quan đều ấn đồng dải xanh, gọi là nước Văn Lang; truyền 18 đời."

    Sử kí, quyển 113, Nam Việt liệt truyện, 53, Sách ẩn (thời Nhà Đường – Tư Mã Trinh soạn) dẫn [[Quảng châu kí chép:

    “Quận Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê.

    Cựu Đường thư (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, năm 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí (viết thời Lưu Tống, 420 – 479) chép:

    “Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu...".

    Tuy nhiên, các sách này không thống nhất tên gọi của vua nước này, có sách đề cập đến Hùng Vương (雄王) nhưng có sách lại gọi là Lạc Vương (雒王). Hai chữ này viết gần giống nhau nên có thể đã có sự nhầm lẫn.

    Địa lý

    Theo "Lĩnh Nam chích quái" (嶺南摭怪), quyển 1, Hồng Bàng thị truyện (鴻龐氏傳) thì nước Văn Lang:

    • Đông giáp Nam Hải (南海), tức biển Đông
    • Tây tới Ba Thục (巴蜀)
    • Bắc tới hồ Động Đình (洞庭)
    • Nam tới nước Hồ Tôn Tinh (狐猻精), còn gọi là nước Hồ Tôn (胡孫). Hồ Tôn Tinh về sau trở thành nước Chiêm Thành (占城).
    • Về sau, qua các đời Hùng Vương tiếp theo, đất nước Văn Lang rộng lớn ấy bị phân chia thành Bách Việt, trăm bộ tộc Việt, trăm nước Việt, Văn Lang bấy giờ còn như hình dưới.

    Nước được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡), bao gồm:

    1. Việt Thường (越裳)
    2. Giao Chỉ (交趾)
    3. Chu Diên (朱鳶)
    4. Vũ Ninh (武寧)
    5. Phúc Lộc (福祿)
    6. Ninh Hải (寧海)
    7. Dương Tuyền (陽泉)
    8. Lục Hải (陸海)
    9. Hoài Hoan (懷驩)
    10. Cửu Chân (九真)
    11. Nhật Nam (日南)
    12. Chân Định (真定)
    13. Văn Lang (文郎)
    14. Quế Lâm (桂林)
    15. Tượng Quận (象郡)
    Tìm hiệu sự ra đời của nhà nước Văn Lang và Âu Lạc xã hội Văn Lang có mấy tầng lớp
    Nước Văn Lang năm 500 TCN

    Theo "Việt sử lược" (越史略), quyển thượng, Quốc sơ duyên cách (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落) là:

    1. Giao Chỉ (交趾)
    2. Việt Thường Thị (越裳氏)
    3. Vũ Ninh (武寧)
    4. Quân Ninh (軍寧)
    5. Gia Ninh (嘉寧)
    6. Ninh Hải (寧海)
    7. Lục Hải (陸海)
    8. Thang Tuyền (湯泉)
    9. Tân Xương (新昌)
    10. Bình Văn (平文)
    11. Văn Lang (文郎)
    12. Cửu Chân (九真)
    13. Nhật Nam (日南)
    14. Hoài Hoan (懷驩)
    15. Cửu Đức (九德)

    Kinh đô đặt tại bộ Văn Lang.

    Trong "Đại Việt sử ký toàn thư" (大越史記全書), Ngoại kỉ (外紀), quyển 1, Hồng Bàng thị kỉ (鴻厖氏紀), cương vực và tên gọi 15 bộ của nước Văn Lang được chép gần như tương tự với "Lĩnh Nam chích quái" chỉ khác là không có bốn bộ Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận mà thay vào đó là bốn bộ Vũ Định (武定), Bình Văn (平文), Tân Hưng (新興) và Cửu Đức (九德). Bộ Văn Lang là nơi vua đóng đô. 15 bộ của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" bao gồm:

    1. Giao Chỉ (交趾)
    2. Chu Diên (朱鳶)
    3. Vũ Ninh (武寧)
    4. Phúc Lộc (福祿)
    5. Việt Thường (越裳)
    6. Ninh Hải (寧海)
    7. Dương Tuyền (陽泉)
    8. Lục Hải (陸海)
    9. Vũ Định (武定)
    10. Hoài Hoan (懷驩)
    11. Cửu Chân (九真)
    12. Bình Văn (平文)
    13. Tân Hưng (新興)
    14. Cửu Đức (九德)
    15. Văn Lang (文郎)
    Tìm hiệu sự ra đời của nhà nước Văn Lang và Âu Lạc xã hội Văn Lang có mấy tầng lớp
    Bản đồ cương vực của nước Văn Lang (lưu ý: đây chỉ là ước chừng, vì ghi chép địa lý thời đó là chưa rõ ràng)

    Các tài liệu nghiên cứu sau này cho rằng lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, thậm chí kéo dài tới Thừa Thiên Huế[5], dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, thời kỳ Văn Lang của các vua Hùng tương ứng với thời kỳ văn hoá Đông Sơn (từ năm 696 TCN - 682 TCN)

    Mười lăm bộ, ở Sử cũ có chép đầy đủ tên riêng, là:

    1) Văn Lang(文郎)

    2) Giao Chỉ (交趾)

    3) Chu Diên (朱鳶)

    4) Võ Ninh (武寧)

    5) Phúc Lộc(福祿)

    6) Việt Thường(越裳)

    7) Ninh Hải (陸海)

    8) Dương Tuyền (陽泉)

    Tìm hiệu sự ra đời của nhà nước Văn Lang và Âu Lạc xã hội Văn Lang có mấy tầng lớp
    Nhà nước Văn Lang trên bản đồ châu Á (300 TCN), được thể hiện màu đỏ (Vương quốc của người Việt)

    9) Lục Hải (陸海)

    10) Võ Định (武定)

    11) Hoài Hoan (懷驩)

    12) Cửu Chân (九真)

    13) Bình Văn (平文)

    14) Tân Hưng (新興)

    15) Cửu Đức (九德)

    Người đời sau có lấy tên các bộ ấy để chú sách Dư địa chí. Nay xem như ở Sử Khân định khảo và chú, từ nước Ngô mới đặt quận Cửu Đức (nay là đất Hà Tĩnh) mà đến đời thuộc hán mới có huyện Chu Diên (nay là đất Vĩnh Tường). Nhân Nhân thế xem ra thời cả như như mười ba bộ kia, có nhẽ đều là sau khi Triệu Đà thống trị ta, mới đạt đặt tên ấy. 15 bộ chia đây, không biết cõi đất ra làm sao, nhưng hẳn chỉ có những tên gọi rất đơn sơ mà không truyền lại đến nay vậy. Vậy nay chỉ tạm biết là mười lăm bộ mà không dám theo ở Sử cũ liệt tên.

    Tổ chức nhà nước

    Đứng đầu nhà nước là Hùng Vương, trong triều đình có các quan giúp việc là Lạc Hầu, quan Lạc Tướng cai quản các bộ địa phương, dưới Lạc Tướng là các quan Bồ Chính cai quản từng khu vực nhỏ (làng). Theo các tư liệu cổ, các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời (hoặc dòng) vua. Mới đặt tên quan. Tướng văn gọi là Lạc hầu; tướng võ gọi là Lạc tướng; các quan nhỏ, gọi là Bồ chánh; con trai vua gọi là Quan lang; con gái vua gọi là Mỵ nương. Ngôi vị cha truyền con nối, gọi là phụ đạo.

    Xã hội có giai cấp có lẽ chưa xuất hiện, nhưng chắc chắn đã xuất hiện sự phân tầng. Theo Lĩnh Nam chích quái, tôi tớ được gọi là xao nếu là nữ, và xung nếu là nam, kẻ bề dưới là hôn. Xao có thể được gắn với sao trong tiếng Thái: con gái, hôn của tiếng Chăm và ho hun của tiếng Jarai và côn huon trong tiếng Thái là những từ dùng để gọi các nô lệ chuyên làm việc nhà.

    Quan điểm về đặc tính của nhà nước Văn Lang rất đa dạng. Có nhiều quan điểm khác nhau trong đó có quan điểm của GS. Hà Văn Tấn Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine cho rằng nhà nước Văn Lang chỉ là một cái làng lớn (Hà Văn Tấn, Làng, liên làng và siêu làng (Mấy vấn đề về phương pháp), Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 1, 1987, in lại trong Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nhà xuất bản ĐHQGHN, 2007); quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cho rằng: Nhà nước Văn Lang thực chất là một "nhà nước siêu làng", thể hiện cả ở sự liên kết giữa làng và nước, chứ không chỉ là sự liên kết giữa các làng với nhau. Theo tác giả, tính chất "siêu làng" thể hiện ít nhất ở ba khía cạnh: Thứ nhất, về nội dung, nhà nước mang dáng dấp của một cái làng lớn có tính liên kết mạnh, tính đại diện cao và tính giai cấp yếu. Thứ hai, về phạm vi và tính chất liên kết, quan hệ làng nước mang tính hoà đồng, lưỡng hợp, chưa có sự phân định rạch ròi về chức năng, thẩm quyền giữa làng và nước. Thứ ba, về thời gian, nhà nước Văn Lang dần được hình thành trong một quá trình rất lâu dài[6].

    Kết thúc

    Cuối thời Hồng Bàng, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) cũng như theo Đại Việt sử lược, do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là Thục Phán sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sáp nhập và thành lập nước Âu Lạc.

    Tham khảo

    • Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên
    • Đại Việt sử lược, khuyết danh - Trần Quốc Vượng dịch
    • Chú thích

    1. ^ Trần Quốc Vượng,"Từ truyện ngụ ngôn đến lịch sử", sđd, trang 148-155
    2. ^ Từ Văn Lang đến Thăng Long - Quá trình tìm chọn kinh đô muôn đời của đất nước [1]
    3. ^ [2][liên kết hỏng]
    4. ^ “Việt Sử lược”.
    5. ^ “LỊCH SỬ TT-HUẾ”. Báo Thừa-Thiên-Huế.
    6. ^ Nguyễn Minh Tuấn, Nhà nước Văn Lang - nhà nước siêu làng, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, chuyên san Kinh tế - Luật, Tập 23, Số 3, năm 2007

    Xem thêm

    • Hùng Vương
    • Hồng Bàng
    • Phong Châu (kinh đô)
    • Vũ Ninh (bộ)
    • Việt Thường
    • Thánh Gióng
    • Sơn Tinh
    • Thủy Tinh (nhân vật)
    • Mai An Tiêm
    • Chử Đồng Tử
    • Mỵ Nương
    • Lang Liêu
    • Văn hóa Đông Sơn
    • Trống đồng Đông Sơn
    • Lạc Việt
    • Âu Việt
    • An Dương Vương
    • Triệu Đà
    • Âu Lạc
    • Nam Việt

    Liên kết ngoài

    • Văn Lang tại Từ điển bách khoa Việt Nam
    • Van Lang (legendary kingdom, Vietnam) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)

    Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Văn_Lang&oldid=69273492”