Tại sao người Do Thái lại bị dân áp

Nạn diệt chủng dân tộc Do Thái trong Thế chiến II [Holocaust] là một trong những thảm kịch khủng khiếp nhất của nhân loại. Trong thảm họa này, chế độ Đức Quốc xã đã giết chết 6 triệu người Do Thái, với mục đích xóa sổ toàn bộ dân tộc này.

Sau khi lên nắm quyền, phát xít Đức đã thực thi chính sách diệt chủng nhằm vào dân tộc Do Thái. Đây là một hành động có chủ đích, có kế hoạch chứ không phải là hành động ngẫu nhiên, cảm tính. Đức Quốc xã theo đuổi chính sách bài Do Thái từ đầu chí cuối.

Các đại biểu dự lễ tưởng niệm Holocaust tại Hà Nội hôm 27/1 thảo luận về cuộc diệt chủng Do Thái. Đại sứ Israel Eshcar ngồi ở vị trí thứ 2 từ trái sang, còn Đại sứ Đức Hildner ở vị trí thứ 3 từ trái sang. Ảnh: Việt Anh.

Trước năm 1948, dân tộc Do Thái chưa có Tổ quốc của riêng mình mà sống lưu vong ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở châu Âu. Do vậy họ ở vào thế yếu khi đối mặt với chủ nghĩa bài Do Thái nói chung và chính sách diệt chủng của Đức Quốc xã nói riêng.

Trước những đau khổ do phát xít Đức gây ra cho cộng đồng Do Thái cũng như để cảnh tỉnh thế giới về họa diệt chủng trong tương lai, Liên Hợp Quốc đã chọn ngày 27/1 hàng năm làm Ngày tưởng niệm Holocaust Quốc tế. Ngày 27/1 cũng chính là ngày Hồng quân Liên Xô giải phóng trại tập trung khét tiếng Auschwitz của phát xít Đức trên đất Ba Lan bị chiếm đóng.

Nhân dịp này, vào ngày 27/1/2021 vừa qua, Đại sứ quán Israel tại Việt Nam, Đại sứ quán Đức tại Việt Nam và trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn [thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội] đã tổ chức một lễ tưởng niệm các nạn nhân Do Thái trong Holocaust. Sự kiện tưởng niệm này có mục đích giúp người dân Việt Nam thêm hiểu biết về vụ Holocaust và đồng cảm với các nạn nhân diệt chủng.

Tội ác được “chuyên nghiệp hóa”

Phát biểu tại buổi lễ, Đại sứ Israel tại Việt Nam Nadav Eshcar cho biết: “Hành động diệt chủng đó nhằm vào tất cả mọi người thuộc về dân tộc Do Thái, từ người già, phụ nữ cho đến trẻ em, cả người khỏe mạnh lẫn người ốm yếu, cả trí thức lẫn dân lao động, cả người giàu lẫn người nghèo. Án tử hình cho tất cả. Nếu bạn là người Do Thái, số phận của bạn khi đó chỉ là cái chết”.

Vẫn lời Đại sứ Eshcar: “Chiến dịch diệt chủng đó mang tính quốc gia, càng lúc càng hiện đại. Các kỹ sư Đức khi đó đã hoàn thiện các phương pháp cho phép giết nhiều người nhất trong thời gian ngắn nhất với chi phí thấp nhất có thể”.

>> Xem thêm: Bài học xương máu từ chế độ diệt chủng Pol Pot - Khmer Đỏ

Điều man rợ giữa thế kỷ 20

Đại sứ Israel Nadav Eshcar cho biết thêm: “Phát xít Đức gom người Do Thái ở khắp châu Âu lại, và chuyển họ tới các cơ sở tập trung để tiến hành thảm sát. Những người khỏe mạnh bị biến thành nô lệ phục vụ công nghiệp chiến tranh Đức, đa phần trong số họ về sau chết dần chết mòn vì đói, bệnh tật, kiệt sức, hoặc bị hành quyết vì các lỗi vặt vãnh như đánh mất mũ hoặc dậy không đúng giờ để đi đào đất... Những người còn lại thì bị đưa vào phòng khí ngạt và bị phun khí độc đến chết. Thi thể họ sau đó bị thiêu đốt, tro cốt được đóng thành thùng đem đi làm phân bón”.

Và chỉ trong thời gian ngắn trong Thế chiến II, 6 triệu người Do Thái [tức khoảng 1/3 dân tộc Do Thái khi đó] đã bị sát hại theo kiểu diệt chủng như thế này. Đại sứ Israel Eshcar nói: “Nếu Đức Quốc xã mà nắm thế thượng phong trong cả cuộc chiến tranh đó, chúng có thể đã hoàn thành mưu đồ diệt chủng đó trong một thời gian ngắn. Khi ấy, có lẽ chính tôi cũng không thể tồn tại để mà đứng đây nói chuyện với các quý vị”.

>> Xem thêm: Độc lập dân tộc của Việt Nam trước các nước lớn

Bài học thành lập quốc gia Israel cho người Do Thái

Đại sứ Israel Eshcar cho rằng người Do Thái đã rút ra được các bài học cho mình từ bi kịch nói trên. Ông nói, “chúng tôi hiểu rằng chúng tôi phải chủ động nắm lấy số phận của mình bằng chính bàn tay của mình, rồi thiết lập quốc gia có chủ quyền và tự do của riêng mình, đó là Nhà nước Israel”.

Năm 1948, chỉ 3 năm sau khi Thế chiến II kết thúc, Nhà nước Israel đã ra đời với sự nỗ lực không mệt mỏi của cộng đồng Do Thái [đặc biệt là chính trị gia David Ben-Guiron] và sự giúp đỡ của một số nước, trong đó có Liên Xô.

Đại sứ Eshcar cảnh báo thảm kịch Holocaust vẫn có thể tái diễn và ông kêu gọi tất cả mọi người nêu cao tinh thần trách nhiệm và làm mọi thứ có thể để bảo đảm những điều tương tự không bao giờ tái diễn, với bất cứ ai.

Các đại biểu trong buổi lễ kỷ niệm này đã tiến hành nghi thức thắp nến tưởng niệm nạn nhân Holocaust – một truyền thống của người Do Thái ở Israel và trên khắp thế giới.

Tham dự buổi tưởng niệm này ngoài Đại sứ Israel còn có Điều phối viên thường trú Liên Hợp Quốc tại Việt Nam Kamal Malhotra, Hiệu phó trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội Hoàng Anh Tuấn, các sinh viên của trường đại học này, và đặc biệt là Đại sứ Đức tại Việt Nam Guido Hildner.

Một nét đáng trân quý của nước Đức hiện đại [khác biệt với chính quyền một số nước ở Tây Á và Đông Á] là họ không hề phủ nhận tội diệt chủng do chế độ Đức Quốc xã trước đây gây ra cho người dân ở các nước khác trên thế giới. Giới chức Đức hiện nay cũng đã xin lỗi các nạn nhân về các tội ác do phát xít Đức gây ra. Luật pháp Cộng hòa Liên bang Đức nghiêm cấm mọi hoạt động tuyên truyền, cổ xúy cho chủ nghĩa phát xít Đức./.

Hội nghị của các trí thức sát thủ bài Do Thái

Đúng 80 năm trước, vào ngày 20/1/1942, 15 người tụ họp tại một villa thơ mộng bên hồ gần thủ đô Berlin [Đức]. Đây gồm toàn những nam giới có nền giáo dục cao, có tới 7 vị trong đó sở hữu bằng cấp cao, bao gồm triết học, luật, và y học. Nhưng đây đồng thời là các phần tử Đức Quốc xã. Chúng tụ họp trong căn biệt thự này để vạch ra ý tưởng về giải pháp cho “Vấn đề Do Thái”.

Đồ tể Hitler và các quan chức chóp bu của chế độ phát xít Đức trong một đại hội của đảng Quốc xã năm 1938. Ảnh: USHMM.

Hội nghị Wannsee là một sự kiện khét tiếng. Sách báo, sân khấu, và điện ảnh đã mô tả cuộc họp mà trong đó các nam giới có giáo dục lại đi lên kế hoạch giết người hàng loạt thông qua phương pháp công nghiệp.

Đức Quốc xã đã nhắm tới người Do Thái trước khi chúng lên nắm quyền ở Đức vào năm 1933. Thực sự, chủ nghĩa bài Do Thái nằm ở tâm của hệ tư tưởng phong trào Đức Quốc xã. Như nhận xét của sử gia Thomas Childers, “chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Đức Quốc xã, đặc biệt là chủ nghĩa bài Do Thái điên dại, luôn trồi lên bề mặt”.

Nhưng trước khi có thể tiến hành giết hại hàng loạt người của một dân tộc, Đức Quốc xã phải phi nhân tính hóa họ.

Trước tiên, Đức Quốc xã tẩy chay các cửa hàng thuộc sở hữu của người Do Thái. Tổ chức bán quân sự SA của đảng Quốc xã hỗ trợ thực thi tẩy chay, thường là bằng phương thức bạo lực. Người Do Thái bị cấm phục vụ trong quân đội và làm các nghề nghiệp như luật và dược.

Năm 1935, theo chỉ đạo của trùm phát xít Đức Adolf Hitler, bộ luật Nuremberg tước bỏ quyền dân sự cơ bản của người Do Thái, và cấm việc hôn nhân chéo cũng như quan hệ tình dục giữa người Do Thái và người “Aryan”.

Sau này, mục sư Martin Luther King, Jr. nhận xét: “Chúng ta không bao giờ được quên rằng mọi thứ mà Adolf Hitler làm ở Đức đều hợp pháp”.

Kể từ đó, Đức Quốc xã không mất nhiều thời gian để xúc tiến bạo lực với sự tài trợ của nhà nước nhằm vào dân tộc Do Thái.

Trong các ngày 9-10/11/1938, Đức Quốc xã khởi động trò Kristallnacht [đêm kính vỡ], trong đó 91 người Do Thái đã bị sát hại, còn tài sản của họ bị tịch thu. Ngoài ra, các giáo đường Do Thái bị phá hủy, 30.000 người Do Thái bị đưa vào trại tập trung.

Ấy thế nhưng lòng hận thù mang tính diệt chủng của Đức Quốc xã mới chỉ bắt đầu. Nhờ có sự nhân nhượng cũng như thờ ơ của phương Tây, đảng Quốc xã của trùm phát xít Hitler đã bung ra cơn thịnh nộ của mình khi “xẻ thịt” châu Âu. Vào tháng 10/1939, một tháng sau khi Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan, Hitler ra lệnh giết hàng loạt những người khuyết tật thể xác và trí óc – những người bị chúng coi là “không đáng sống”. Chương trình T4 trở thành kế hoạch cho những gì xảy ra sau đó.

Vào tháng 6/1941, sau khi Đức xâm lược Liên Xô, việc hủy diệt dân tộc Do Thái đã trở thành quốc sách chính thức của phát xít Đức. Các biệt đội tử thần đã sát hại hơn một triệu người Do Thái vào cuối năm 1941

Các báo cáo về các vụ thảm sát như thế đã tới được phương Tây. Trong một phát biểu trên sóng phát thanh vào ngày 24/8/1941, Thủ tướng Anh Winston Churchill nói rằng người Do Thái ở “toàn bộ các khu vực đang bị hủy diệt” và cảnh báo rằng “chúng ta đang chứng kiến một tội ác không có tên”.

Biệt thự Wannsee. Ảnh: DW.

Công nghiệp hóa tội ác giết người

Sử gia Andrew Roberts nhận xét: Trước hội nghị bên bờ hồ Wannsee vào ngày 20/1/1942, quy tắc chung của Đức trong giải quyết vấn đề Do Thái là mang tính ngẫu hứng thay vì dựa trên một kế hoạch cụ thể.

Roberts cho biết, mục đích của cuộc họp là “đưa Reinhard Heydrich, 37 tuổi, trưởng cơ quan Cảnh sát An ninh [SD], vào trung tâm của quá trình này, trong khi cũng thiết lập trách nhiệm tập thể không thể phủ nhận”.

Cuộc họp đã “công nghiệp hóa” hoạt động giết người hàng loạt.

Sử gia Mark Roseman gọi Nghị định thư Wannsee là “tuyên bố có tính biểu tượng và tính kế hoạch nhất của Đức Quốc xã về cách thức diệt chủng”.

Tại hội nghị trên, các đại biểu tham dự đã bày tỏ sự “thành thật” đáng ngạc nhiên của chúng về các kế hoạch sát nhân. Một người tham dự, tên là Adolf Eichmann, sau này viết trong hồi ký vào năm 1961 rằng người ta nói thẳng, không quanh co uyển ngữ gì hết. “Tất cả đều sẵn lòng bày tỏ sự nhất trí” với mục đích của hội nghị. Ngoài ra, Eichmann cho biết thêm, chúng còn háo hức ganh đua với nhau trong cam kết và hành động cho một giải pháp cuối cùng đối với vấn đề Do Thái.

Theo đó, mỗi người Do Thái còn sống ở châu Âu sẽ phải bị sát hại, thậm chí cả khi những người khỏe mạnh hơn đã phải lao động cưỡng bức. Biên bản hội nghị có đoạn: “Xấp xỉ 11 triệu người Do Thái sẽ tham gia Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái ở châu Âu”.

VOV.VN - Bi kịch diệt chủng Do Thái [trong đó có tới 6 triệu người Do Thái - tức 1/3 dân tộc này khi ấy, bị giết hại] là một bài học cực lớn đối với họ, buộc họ phải thành lập một quốc gia có chủ quyền của riêng mình.

Người Do Thái sống ở các nước trung lập như Ireland cũng bị đưa vào danh sách đen của trùm cảnh sát Heydrich, thể hiện rõ quyết tâm của bọn Quốc xã trong việc đạt mục tiêu đề ra.

Các đại biểu Hội nghị trên còn sử dụng ngôn ngữ chính thức và kỹ thuật để bàn vấn đề ai được coi là Do Thái.

Sau cùng, các đại biểu bước vào màn thưởng thức rượu vang và xì gà sành điệu.

Trong cuốn sách lịch sử năm 2011 về chủ đề Thế chiến II, tác giả Roberts viết rằng “Diệt chủng đã được công nghiệp hóa nhanh chóng sau hội nghị Wannsee”.

Thực tế, vào giữa tháng 3/1942, khoảng 75-80% tất cả các nạn nhân của cuộc Diệt chủng Do Thái [Holocaust] vẫn còn sống, trong khi 20-25% còn lại đã chết. Nhưng chỉ 11 tháng sau đó, tỷ lệ phần trăm này đã bị đảo ngược, tức là tỷ lệ người bị giết đã lên tới 75-80%.

Theo Roberts, hội nghị Wannsee là “cột mốc cho thấy diệt chủng đã trở thành chính sách chính thức”.

Cuối cùng, Holocaust đã cướp đi sinh mạng của hơn 6 triệu người Do Thái – đa số bị giết sau hội nghị Wannsee.

Những người tham gia hội nghị trên đều là những kẻ có giáo dục và có “văn hóa”. Thế nhưng chúng lại là những nhân tố then chốt trong cuộc diệt chủng người Do Thái.

Roberts nhận xét chua xót: “Vụ Holocaust có thể đã không được tiến hành nếu không có sự sẵn lòng hợp tác của các nhà khoa học, nhà thống kê, nhà nhân khẩu học, và nhà khoa học xã hội” – những người đã “hoạt động trong trạng thái chân không đạo đức”./.

Video liên quan

Chủ Đề