Nước ta có khoảng 4 văn di tích văn hóa lịch sử trong đó số di tích đã được nhà nước xếp hạng là

Theo thống kê, trong khu vực Cổ Loa hiện có khoảng 60 di tích [trong đó có 07 di tích cấp quốc gia], bao gồm các loại hình: di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, cách mạng, di chỉ khảo cổ học.

Đời sống tinh thần của cư dân Cổ Loa rất phong phú, với nhiều tập tục mang đậm sắc thái vùng miền, như tục kết chiềng, kết chạ, tục ăn sêu Bà Chúa vào ngày 13 tháng Tám [Âm lịch], tục khất keo làm cụ Từ, tục kiêng tên húy, tục kiêng nuôi gà, ngan, ngỗng trắng, tục đãi dâu, không đãi rể. Lễ hội Cổ Loa được tổ chức tại đền Thượng vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm [tương truyền là ngày Thục Phán lên ngôi vua, lấy hiệu là An Dương Vương]

Di tích Cổ Loa cũng là địa điểm khảo cổ học có giá trị nổi bật, gắn với các giai đoạn văn hóa khảo cổ của người Việt, như văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, mà đỉnh cao là Văn hóa Đông Sơn, với nhiều di chỉ khảo cổ tiêu biểu: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, xóm Nhồi, đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực... Tại khu vực này, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí và vũ khí bằng đồng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về thời kỳ An Dương Vương và lịch sử vùng đất này.

Thành Cổ Loa: có diện tích gần 46ha, gồm 3 vòng thành [thành Nội, thành Trung, thành Ngoại] khép kín, đắp bằng đất, với tổng chiều dài là 15,820km. Thành được đắp dựa theo địa hình tự nhiên - nối những gò, đống và những dải đất cao dọc theo sông; bao quanh thành là các hào nước thông với sông Hoàng, trên mặt thành có các ụ đất nhô ra ngoài, gọi là “hỏa hồi”; vòng thành có chỗ xẻ làm cửa, phía trên xây miếu thờ thần.

Các nhà khảo cổ học đã tiến hành 03 đợt khai quật khảo cổ tại khu vực này, vào những năm 1970, 2005, 2007 - 2008. Kết quả khai quật cho thấy, trong lịch sử thành Cổ Loa đã trải qua ít nhất 3 lần đắp, mà dấu tích liên quan còn được biểu hiện qua các di tích: lũy phòng thủ, di tích bếpcụm gốm Đông Sơn, lò nung gạch, ngói có niên đại thế kỷ XVIII - XIX...

Đền Thượng [đền thờ An Dương Vương]: dựng trên khu đất rộng 19.138,6m2. Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc.

Kiến trúc đền gồm: tiền tế - 3 gian, 2 chái, hệ khung kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Trên hệ mái đắp các đầu đao cong, tượng nghê chầu. Các bộ vì chính được làm theo kiểu giá chiêng, sơn son thếp vàng, chạm họa tiết “rồng vờn mây”; trung đường đấu mái liền với hậu cung, tạo thành dạng thức kiến trúc kiểu “chuôi vồ”, bên trong đặt tượng An Dương Vương, bằng đồng, nặng khoảng 200kg, đúc năm 1897.

Từ cuối năm 2004 đến năm 2007, các nhà khảo cổ học đã tiến hành 3 đợt khai quật tại đền Thượng, với 9 hố, trên tổng diện tích 311,5m2. Qua những đợt khai quật này, đã phát hiện được hệ thống lò đúc mũi tên đồng và nhiều hiện vật có giá trị liên quan khác.

Đình Cổ Loa [Ngự Triều Di Quy]có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên. Các đề tài trang trí trên kiến trúc này mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 17 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khá tiêu biểu.

Am Mỵ Châu [am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu]: toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung.

Chùa Cổ Loa [Bảo Sơn tự]: được khởi dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII, bố cục mặt bằng nền theo dạng “nội Công, ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu cung, gác chuông, tháp mộ, cổng hậu, nhà Tổ, nhà ni, nhà khách. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được 132 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc.

Chùa Mạch Tràng [Quang Linh tự]: được dựng vào thời Hậu Lê, trên diện tích rộng 4.922,4m2. Chùa quay hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Tam bảo, tiền đường, thượng điện, nhà Mẫu, giải vũ, hành lang...

Đình Mạch Tràng: tọa lạc trên một khu đất cao, có diện tích 6.198,4m2, gồm các hạng mục tiền tế, đại đình và hậu cung.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa là Di tích quốc gia đặc biệt [Quyết định số 1419/QĐ-TTg].

Cảnh Toàn [Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa]


Ngoài Nhà truyền thống, Di tích địa điểm tổ chức Đại hội lần thứ nhất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cứu quốc và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam còn rất sơ sài

Đằng sau danh hiệu

Năm 2016, địa điểm tổ chức Đại hội lần thứ nhất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cứu quốc và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [năm 1950], tại xã Phú Xuyên [Đại Từ, Thái Nguyên] được xếp hạngdi tíchlịch sử cấp Quốc gia. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm được công nhận, Di tích vẫn còn khá sơ sài.

Đến nay, địa điểm này vẫn không có gì thay đổi so với Nhà truyền thống được Công đoàn Công nghiệp Việt Nam xây dựng trên nền hội trường 8 mái khi xưa với diện tích khoảng 160m2 và bia ghi dấu sự kiện đặt trong khuôn viên Di tích. Hiện vật bên trong Nhà truyền thống cũng khá khiêm tốn, chỉ có 2 bức ảnh tư liệu chụp tại Đại hội đại biểu Công đoàn toàn quốc lần thứ Nhất. Ngoài ra, một số bộ bàn ghế phục vụ các buổi sinh hoạt của người dân xóm Tân Lập cũng được đặt tại đây.

Ông Phạm Văn Thắng, Phó Chủ tịch UBND xã Phú Xuyên cho biết: Trong số các di tích được xếp hạng, tỷ lệ di tích có lượng du khách tham quan thường xuyên không nhiều, một phần do công tác quảng bá, giới thiệu về di tích còn hạn chế… Điều này dẫn tới một số di tích bị lãng quên, chưa phát huy hết giá trị.

Tương tự vậy, di chỉ khảo cổ Phôi Phối – Bãi Cọi [thuộc xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh] được các chuyên gia đánh giá là nơi giao thoa của hai nền văn hóa nổi tiếng của Việt Nam là văn hóa Đông Sơn và văn hóa Sa Huỳnh, đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia năm 2013. Tuy nhiên, sau 7 năm được xếp hạng, di chỉ vẫn chỉ là bãi đất trống không biển báo, chỉ dẫn, không rào chắn. Đặc biệt, di chỉ đang ngày càng bị xâm hại nghiêm trọng bởi nạn “cát tặc” và những người đi săn đồ cổ.

Di tích lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ tôn vinh quá khứ, đề cao phẩm giá con người và đạo lý dân tộc “Ăn quả nhớ người trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” mà còn có ý nghĩa giáo dục truyền thống cho mọi tầng lớp nhân dân [nhất là thế hệ trẻ]. Mỗi di tích góp phần làm cho thế hệ hôm nay càng hiểu biết nhiều hơn truyền thống văn hóa - lịch sử của địa phương, đất nước. Đồng thời, nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân trong việc tôn trọng, giữ gìn quá khứ.

Hiện tại, trên cả nước có đến 4.000 di tích được xếp hạng Quốc gia và 9.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Con số di tích xếp hạng tăng lên nhưng những di tích đã được xếp hạng bị xuống cấp do chưa được bảo tồn và trùng tu kịp thời lại là một thực trạng đang diễn ra hằng ngày.

Sau khi xếp hạng, di tích trở thành một phần tự hào của cộng đồng. Việc xếp hạng di tích nhằm để cộng đồng nhận diện và bảo vệ giá trị, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của di tích. Nhưng từ thực tế, đang có hàng trăm di tích, di sản sau khi xếp hạng vẫn im lìm, thậm chí đang đứng trước nguy cơ bị huỷ hoại.

Nhà nghiên cứu Di sản văn hoá - TS Nguyễn Đức Bá [Giảng viên Đại học Văn hoá Hà Nội - chuyên viên Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hoá Tôn giáo] cho biết: “Có một nghịch lý là nếu Di tích xếp hạng cấp Quốc gia thì nguồntrùng tu, tôn tạosẽ do Bộ Văn hoá - Thể Thao & Du lịch cấp. Di tích xếp hạng cấp tỉnh, thành phố thì nguồn kinh phí trùng tu, tôn tạo sẽ do địa phương cấp. Chỉ có điều nguồn kinh phí đấy eo hẹp, thực sự là không đủ để trùng tu, tôn tạo. Có khi chi cho một khu di tích đấy chỉ khoảng 1 tỷ, nhưng muốn trùng tu, tôn tạo thực sự phải mất đến cả chục tỷ, có nghĩa là gấp 10 lần”.


Di chỉ khảo cổ Phôi Phối – Bãi Cọi được xếp hạng di tích cấp quốc gia, nhưng người dân tận dụng để chăn thả trâu bò. Ảnh: Khánh Chi

Để di tích sống cùng đời sống xã hội

Cùng với các di sản phi vật thể, hệ thống các di tích, chính là nguồn tài sản vô giá mà các thế hệ tiền nhân đã để lại, là minh chứng cho bề dày lịch sử, bản sắc văn hóa của địa phương. Do vậy, không thể chỉ trông chờ vào một nguồn duy nhất là ngân sách nhà nước để bảo tồn, tu bổ mà cần có sự chung tay của cả cộng đồng, đóng góp cả về vật chất và tinh thần cho công tác bảo tồn di tích.

Thực tế cho thấy, xã hội hóa được xem là giải pháp then chốt trong huy động nguồn lực để trùng tu, tu bổ các di tích. Tuy nhiên, nhiều địa phương còn gặp khó khăn do việc huy động xã hội hóa, vì di tích liên quan đến nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật và các vấn đề xã hội khác như: phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng...cần phải được nghiên cứu cẩn trọng.

Các chuyên gia đều cho rằng, cần phải xây dựng các đề án xã hội hóa trong công tác bảo tồn tôn tạo di tích gắn với khai thác phát triển du lịch, nhất là các di tích quốc gia đặc biệt có lợi thế; mời gọi các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cùng liên kết hợp tác, hình thành các điạ chỉ du lịch hấp dẫn gắn với di tích lịch sử văn hóa. Theo PGS. TS Dương Văn Sáu [Đại học Văn hóa Hà Nội], có thể áp dụng phương pháp "bảo tồn động", tức là cho di tích này "sống" cùng đời sống xã hội, đặc biệt là gắn nó với hoạt động du lịch.

Tiến sỹ Ngô Viết Nam Sơn, chuyên gia về quy hoạch, kiến trúc cho rằng, việc bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử là trách nhiệm chung của tất cả những người đang sinh sống tại địa phương. Theo đó, cần xây dựng hệ thống hành lang pháp lý đầy đủ, trong Luật Di sản cần có những sự điều chỉnh phù hợp để bảo vệ những công trình chưa được xếp hạng.

Hơn nữa, hiện nay, nhiều địa phương chưa có cán bộ chuyên trách về công tác di tích. Do đó việc đi sâu, đi sát vào lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn. Một số di tích lịch sử đã đi vào hoạt động, nhưng địa phương chưa bố trí được cán bộ thuyết minh. Khi khách du lịch đến tham quan thì lúng túng trong giới thiệu, quảng bá; không có cán bộ để điều hành dẫn giải, dẫn đến lỗ hổng trong khai thác giá trị di sản văn hóa của địa phương, làm cho ý nghĩa, vai trò, công năng... của công trình lịch sử không được phát huy đầy đủ.

Vậy nên, cần có một chiến lược cụ thể, cần sự đồng hành của nhiều phía, đặc biệt là người dân địa phương thì giá trị của di tích mới thực sự được tồn tại phát huy lan tỏa đúng nghĩa đến muôn đời sau...

Đầu tư gần 6 tỉ đồng bảo tồn, tu bổ tháp Nam di tích tháp Chăm Khương Mỹ

Video liên quan

Chủ Đề