Lương tâm nghề nghiệp trong ngành ngân hàng

Ngày 25/2/2019, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã ban hành “Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng”.

Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt, chứa đựng nhiều rủi ro, đó là kinh doanh tiền tệ, kinh doanh trên cơ sở chữ “tín”. Do vậy, người làm ngân hàng phải tuân theo những yêu cầu và chuẩn mực khắt khe về kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức và tâm thế đúng với nghề của mình. Để nâng cao những phẩm chất đạo đức cần thiết của người cán bộ ngân hàng, xây dựng hình ảnh đẹp của ngân hàng đối với xã hội, việc ban hành Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng là cần thiết và cần được tuyên truyền, áp dụng sâu rộng.

Bộ chuẩn mực nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng bao gồm:

* Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng: gồm 06 chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chính sau:

Tính tuân thủ: Cán bộ ngân hàng phải tôn trọng, tuân thủ pháp luật, quy định, quy trình nghiệp vụ của ngành và nội bộ ngân hàng; không vi phạm pháp luật hoặc đồng lõa, tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật.

Sự cẩn trọng: Cán bộ ngân hàng phải cẩn thận, kỹ lưỡng, cân nhắc thấu đáo, lường đoán kỹ mọi rủi ro, thận trọng trong giao tiếp và giữ kỷ luật phát ngôn; không chủ quan, liều lĩnh, dễ dãi, cả tin; đề cao tinh thần tự chịu trách nhiệm, tránh xảy ra sai sót, sơ suất trong quá trình giải quyết công việc.

Sự  liêm chính: Cán bộ ngân hàng phải luôn tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng bản lĩnh nghề nghiệp, giữ gìn sự liêm chính, minh bạch trong các mối quan hệ, trung thực, thẳng thắn, nghiêm túc; có tinh thần trách nhiệm, tránh lãnh phí, không tham ô, lợi dụng hoặc tiếp tay cho hành vi tham ô, vụ lợi.

Sự tận tâm và chuyên cần: Cán bộ ngân hàng phải tận tâm và chu đáo, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ với nỗ lực cao; thường xuyên học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao kiến thức, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ; không làm việc tắc trách, thiếu tập trung, thiếu tinh thần trách nhiệm.

Tính chủ động, sáng tạo và thích ứng: Cán bộ ngân hàng phải rèn luyện tính tự giác, chủ động tìm tòi, sáng tạo để nâng cao năng suất chất lượng hiệu quả công việc; thích ứng cao trước sự thay đổi của môi trường và yêu cầu mới; cải tiến phương pháp làm việc, nâng cao kỹ năng mềm; không ỉ lại, dựa dẫm, đẩy việc cho người người, không bảo thủ, cứng nhắc, cản trở đổi mới, sáng tạo.

Ý thức bảo mật thông tin: Cán bộ ngân hàng tuân thủ nghiêm quy định của pháp luật và của tổ chức về bảo mật an toàn thông tin, không đưa thông tin sai lệch, thiếu chính xác, mang tính chủ quan cá nhân gây tổn hại đến tổ chức và ngành, gây hoang mai lo ngại, ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng; Lưu trữ, bảo quản hồ sơ, tài liệu theo đúng quy định; Không tùy tiện, sơ hở trong trao đổi thông tin.

*Quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng bao gồm:

Quy tắc ứng xử trong nội bộ:

Cán bộ cấp dưới phải chấp hành nghiêm sự phân công nhiệm vụ, tôn trọng và ứng xử đúng mực đối với cấp trên; thực hiện đúng phận sự; không được có những hành vi gây tổn hại với uy tín của cấp trên; Mạnh dạn bày tỏ chính kiến, tham mưu, thuyết phục cấp trên khi cần thiết.

Cán bộ cấp trên cần tôn trọng, lắng nghe, khuyến khích cấp dưới bày tỏ quan điểm, ý kiến; luôn gương mẫu trong cư xử, tạo không khi hòa đồng, cởi mở, động viên, khích lệ, đối xử công bằng, bình đẳng đối với cấp dưới; chủ động hỗ trợ cấp dưới giải quyết khó khăn, vướng mắc; bảo vệ quyền lợi chính đáng của cấp dưới; không trù dập, phân biệt đối xử, làm tổn hại đến danh dự của cấp dưới; không lợi dụng chức vụ, địa vị để thu lợi cá nhân hoặc làm tổn hại đến lợi ích ngân hàng.

Đối với cán bộ đồng cấp cần giữ gìn đoàn kết nội bộ, có tinh thần tập thể, tôn trọng, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau. Lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp, khiêm nhường tiếp thu học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp; góp ý, phân tích trên tinh thần xây dựng, không lợi dụng quan hệ cá nhận đồng nghiệp để thực hiện hành vi gian lận.

Quy tắc ứng xử với khách hàng và đối tác: Cán bộ ngân hàng phải thể hiện phong cách giao dịch chuyên nghiệp, thân thiện; tác phong nhanh nhẹn, chu đáo, thái độ niềm nở, tận tình, tạo ấn tượng tích cực, tin tưởng; trang phục gọn gàng, lịch sự, có thái độ nghiêm túc, đúng mực trong lúc làm việc, tôn trọng và đối xử công bằng đối với đối tác và khách hàng.

Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng được ban hành nhằm nâng cao ý thức cho đội ngũ cán bộ ngân hàng về tầm quan trọng và sự cần thiết phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp và văn hóa để hoàn thành công việc được giao và là cơ sở cho các tổ chức hội viên thuộc Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam xây dựng và phát triển bộ quy tắc/chuẩn mực đạo đức riêng, phù hợp với đặc thù đơn vị mình.

Khánh Ly

Lương tâm nghề nghiệp trong ngành ngân hàng
Hiện tại, các ngân hàng chưa chú trọng đúng mức trong hoạt động đào tạo về đạo đức nghề nghiệp

Mọi thứ đều có thể có quy trình, trừ đạo đức nghề nghiệp…

Nghe hai từ “Đạo đức” khiến chúng ta có sự liên tưởng đến một chuẩn mực ứng xử nào đó rất khắt khe và nghiêm túc. Những nghề nghiệp mà vấn đề đạo đức luôn được đòi hỏi hàng đầu thường được nhắc đến là nghề y, nghề giáo, nghề luật…

Trong những năm gần đây, sự đòi hỏi về đạo đức nghề nghiệp đã được nhân rộng ra hầu hết các ngành nghề khác của xã hội. Lĩnh vực ngân hàng cũng không là ngoại lệ và càng được lưu tâm hơn khi hàng loạt “đại án ngân hàng” xảy ra liên tiếp trong thời gian qua. Ngân hàng là doanh nghiệp của mọi doanh nghiệp, nơi mà mỗi hoạt động nghiệp vụ đều tuân thủ theo các quy trình. Điều đáng tiếc là, mọi thứ đều có thể có quy trình, trừ đạo đức nghề nghiệp.

Do hoạt động ngân hàng được điều chỉnh chặt chẽ theo các quy định pháp luật, nên để đảm bảo tính tuân thủ, các ngân hàng đều phải “quy định hóa” thành hệ thống văn bản nội bộ, trong đó chỉ rõ những việc được làm, những việc không được làm, những việc có thể lựa chọn làm hoặc không và những điều kiện. Không chỉ dừng ở việc ban hành quy định, kèm theo đó còn là các mẫu biểu để thuận tiện hơn cho người dùng, nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng các quy trình chặt chẽ, giảm thiểu tối đa rủi ro trong các tác nghiệp, nghiệp vụ.

Quy trình đầy đủ và chặt chẽ như vậy, nhưng các hành vi phạm tội, vi phạm đạo đức nghề nghiệp vẫn xảy ra, điển hình là vụ án Huỳnh Thị Huyền Như. Trong vụ án này, nhiều cựu cán bộ ngân hàng bị truy tố về hàng loạt tội doanh như lừa đảo chiếm đoạt tài sản, làm giả con dấu, tài liệu cơ quan tổ chức… Nổi bật nhất là bị cáo Huyền Như, một cựu cán bộ ngân hàng.

Bị cáo đã liên tiếp thực hiện các hành vi phạm tội và liên tục lặp lại các hành vi này với rất nhiều cá nhân, tổ chức trong vòng hơn một năm.

Theo bản án của tòa án, Huyền Như lợi dụng sự am hiểu về nghiệp vụ ngân hàng, lợi dụng sự tin tưởng của một số người vào vị trí cán bộ ngân hàng của bị cáo và một phần giúp sức của một số bị can, một số đối tượng do thiếu trách nhiệm, do vụ lợi đã thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong tất cả các tình tiết của vụ việc, người ta không tìm thấy các chuẩn mực đạo đức của ngân hàng.

Ở mỗi ngân hàng, các quy trình nghiệp vụ thường rất rõ ràng, nhưng quy tắc chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp lại rất trừu tượng. Ranh giới để phân biệt đâu là đạo đức nghề nghiệp, đâu là thao tác nghiệp vụ trong nhiều trường hợp là rất mong manh, khó xác định. Chẳng hạn, cùng một thao tác mở sổ tiết kiệm cho khách hàng gửi tiền, có nhân viên thì thực hiện với tác phong chuyên nghiệp, tận tụy, dịch vụ “từ trái tim”.

Ngược lại, có nhân viên lại thực hiện công việc với ý thái độ trễ nải, cẩu thả, làm cho xong, lề mề. Kết quả cuối cùng thì khách hàng vẫn được nhận cuốn sổ tiết kiệm. Vậy chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng có phải là một tiêu chí để đánh giá về sự hoàn thành công việc, hay đạo đức nghề nghiệp của nhân viên đó?

Việc ban hành những quy tắc đạo đức nghề nghiệp thường hiếm hoi, hoặc nếu có ban hành thì cũng khó thực hiện. Thế mới xảy ra chuyện, có những ngân hàng đã hoạt động hàng chục năm trên thị trường song hiếm khi để xảy ra những vụ việc về vi phạm đạo đức nghề nghiệp dù, nhưng cũng có ngân hàng chỉ mới nổi danh đã xuất hiện các vụ việc phát sinh hậu quả về đạo đức nghề nghiệp.

… Nhưng vẫn có thể đào tạo

Trên thực tế, các ngân hàng thường hay triển khai đào tạo (đào tạo lại, đào tạo nâng cao), bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên. Tuy nhiên, hầu như các khóa học đều chỉ tập trung cải thiện kỹ năng mềm (kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng lãnh đạo,…), mà thiếu đi vấn đề về đạo đức nghề nghiệp.

Các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp thường được xây dựng trên nền tảng ý thức trách nhiệm. Mà ý thức trách nhiệm lại được xây dựng dựa trên sự nhận thức về các trách nhiệm rủi ro pháp lý trong nghề nghiệp. Người hiểu được nghề ngân hàng thường là người nhận thức được rủi ro pháp lý nghiệp vụ.

Từ đó, họ có những ứng xử theo chuẩn mực được đòi hỏi từ nhận thức về trách nhiệm. Suy cho cùng, đó chính là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp - vấn đề mà các ngân hàng chưa chú trọng đúng mức trong hoạt động đào tạo cán bộ của mình.  

Luật sư Phùng Thị Thu Hường, Công ty Luật BASICO