LỜI NÓI ĐẦU
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ [MS B2002-25-05]
“Xây dựng chiến lược đào tạo ngành Mỹ thuật công nghiệp thời kì đầu công
nghiệp hóa tại Việt Nam” mới được nghiệm thu đã “Tìm hiểu sự phát
triển của mỹ thuật công nghiệp [MTCN] thế giới và các mô hình đào tạo
MTCN để rút ra bài học kinh nghiệm ứng dụng vào sự nghiệp đào tạo MTCN
tại Việt Nam [VN]; Phân tích, đánh giá thực trạng ngành MTCN và những
tác động từ môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để thấy những
điểm mạnh và điểm yếu cũng như cơ hội và những thách thức đối với sự phát
triển đào tạo MTCN VN; Xây dựng chiến lược phát triển đào tạo ngành MTCN
giai đoạn 2005–2020 tại VN và Các kế hoạch triển khai và đề xuất một số
kiến nghị với các cấp.”
Vấn đề phát triển đào tạo MTCN được đặt ra một cách
chính thức trong bối cảnh hàng loạt các cơ sở đào tạo ngành MTCN cấp khoa
được mở ra ở các trường ngoài công lập trong khoảng 1 thập niên gần đây
và về mặt khái niệm Design – Mỹ thuật công nghiệp [MTCN] hay Mỹ thuật
ứng dụng [MTƯD] vẫn còn có những quan điểm chưa thống nhất, vì vậy chúng
tôi trong tham luận Hội nghị khoa học Trường Đại học Kiến trúc 2006 này
điểm qua một vài nội dung từ đề tài nghiên cứu khoa học nói trên với mong
muốn góp phần làm rõ một số vấn đề lí luận vẫn còn những ngộ nhận ngay
trong giới chuyên môn.
Design – KHÁI NIỆM MTCN và MTƯD
Mỹ thuật Công nghiệp [MTCN]
= Design công nghiệp [Industrial Design]
Mỹ thuật Ứng dụng [MTƯD] = Design ứng dụng
[Applied Design]
Công thức : 2D ->2F = P+W
“Design bằng các giải pháp của 2D tiến tới mục tiêu 2F thông
qua P và W”.
Trong đó:
2D - Designer & Decor [ Thiết kế và Trang trí]
2F - Function & Form [Công năng và Hình dáng]
P - Product [Sản phẩm]
W - Work [Tác phẩm]
Một số định nghĩa Design
1. Design là nghề thiết kế tạo mẫu,
tạo dáng sản phẩm công nghiệp, nghề thiết kế mỹ thuật sản phẩm, thiết
kế môi trường sống hay thế giới đồ vật và thuật ngữ Designer tại VN thường
hiểu là Mỹ thuật công nghiệp [MTCN]. [1]
2. Design = disegno = Phác thảo, thuật
vẽ [drawing], thiết kế, bản vẽ, là cơ sở của mọi nghệ thuật thị giác,
công việc của sự sáng tạo. [Thuật ngữ Latinh thời Phục hưng][1]
3. Design = “Lập trình một cái gì đó
để thực hiện”; “Thực hiện phác thảo một bản vẽ đầu tiên cho một tác phẩm
nghệ thuật”; “Phác thảo của một sản phẩm mỹ nghệ”. [Quan niệm từ thế kỉ
XVI ở Anh quốc] [1]
4. Design = Mỹ thuật công nghiệp, Thiết
kế công nghiệp hay Mỹ thuật ứng dụng. [Việt Nam 1960 từ tiếng Đức “Industrielle
Formgestaltung”] [1]
5. MTCN = Hoạt động sáng tạo có mục
đích thiết lập một môi trường đồ vật hài hòa thỏa mãn đầy đủ nhất các
nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Mục đích đó đạt được bằng
cách xác lập các chất lượng hình thức của đồ vật tạo nên bởi sản xuất
công nghiệp”. [Viện nghiên cứu khoa học Thẩm mỹ Kỹ thuật toàn liên bang
[Liên Xô trước đây] - Mỹ thuật Công nghiệp – Phạm Đỗ Nhật Tiến, 1986].
[1]
6. Designlà nơi gặp gỡ của mỹ thuật
và công nghiệp, khi con người bắt đầu quyết định những sản phẩm sản xuất
hàng loạt sẽ có hình dạng như thế nào. [Stephen Bayley][1]
8. Design = Tổ hợp công năng [the functional
complex] gồm : tính hữu dụng [use], sự cần thiết [need], têlêsis [Telesis
là thuyết phát triển xã hội được kế hoạch hóa nơi mà nhân loại sử dụng
năng lực giáo dục và phương pháp khoa học hướng tới sự tiến hóa của xã
hội loài người], phương cách [method], tính thẩm mĩ [aesthetics] và sự
kết hợp [association]. [Victor Papanek]… [2]
Chức năng của Design
Thời kỳ hình thành : - Kỹ thuật; - Thực tiễn; - Thẩm mỹ
Thời đại ngày nay: thêm chức năng Biểu tượng
Phân loại ID & AD
Dự thảo “Danh mục giáo dục – 2005 trình độ cao đẳng và đại học Nước
CHXHCN Việt Nam” của Bộ GDĐT:
“5221. Nghệ thuật
522101. Mỹ thuật
52210101. Lịch sử, lí luận và phê bình mỹ thuật
52210102. Hội họa
52210103. Đồ họa
52210104. Điêu khắc
52210105. Gốm
522105. Mỹ thuật ứng dụng
52210501. Thiết kế công nghiệp
52210502. Thiết kế thời trang
52210503. Thiết kế nội thất
52210504. Thiết kế mỹ thuật sân khấu – điện ảnh”
Design công nghiệp và Design ứng dụng hay Design
sản phẩm, Design đồ họa và Design môi trường.
Design công nghiệp
: Nhu cầu ->Design ->Sản xuất ->Tiêu dùng
Mối quan hệ: Nhà thiết kế – Nhà sản xuất – Người tiêu dùng
Design Công nghiệp = Tạo dáng & Đồ họa ->Sản phẩm công
nghiệp
Design ứng dụng : Khách hàng & Design ->Sử dụng
Mối quan hệ: Nhà thiết kế [Designerer] ßà
Khách hàng [Customer]
Designer ứng dụng = Nội thất Thời trang ->Tác phẩm
Quan hệ giữa MTCN và MTƯD
MTƯD = MTCN – P hay MTCN = MTƯD + P [Nhà sản xuất
-Producer]
Mỹ thuật ứng dụng có nền tảng là Mỹ thuật công nghiệp
hay nói cách khác là bao hàm Mỹ thuật công nghiệp bởi vấn đề sản xuất
chế tạo những sản phẩm đưa vào ứng dụng cụ thể trước hết thuộc về lĩnh
vực sản xuất [thường là sản xuất công nghiệp].
Design công năng và hình thức sản phẩm
Trong
lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng điểm phân biệt căn bản với mỹ thuật tạo hình
chính là ở công năng vật chất của sản phẩm. Lịch sử Design và quá trình
phát triển của Design chính là vấn đề quan niệm phần hơn của hình thức
hay công năng và cuộc tranh luận về công năng hay hình dáng [hình thức]
của sản phẩm trong thế kỉ XX lại càng trở nên bất phân thắng bại.
Khung cảnh của một xưởng thiết kế mỹ thuật thời Phục hưng
Nếu như trước đây, thời Design thủ công, vấn đề hình
thức sản phẩm được nâng thành tác phẩm nghệ thuật để chứng tỏ tài ba và
sự khéo léo của bàn tay con người, công năng sản phẩm được xếp hàng thứ
yếu và được coi như một phần của chính hình thức sản phẩm. Ngay cả các
phong trào nghệ thuật cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cũng chỉ là những
thay đổi mang tính hình thức bởi những người tiên phong chỉ chủ trương
tìm kiếm hình thức mới của hoa văn trang trí cho sản phẩm để phù hợp với
thời đại công nghiệp hóa đang diễn ra khắp châu Âu khi đó.
Chính vì thế những motive hình dáng sản phẩm
ít thay đổi. Có nghĩa là những vấn đề mang tính thẩm mỹ cũng không có
những thay đổi triệt để, mặc dù cũng đã có những nghệ sĩ cấp tiến như
Adolf Loos [trường phái Secession Vienna, Áo] hô hào “Hoa
văn là tội ác” và kêu gọi hướng tới thẩm mỹ hiện đại – thẩm mỹ không
hoa văn trang trí, nhưng thực ra phong trào nghệ thuật hiện đại [mệnh
danh hiện đại] thực chất chỉ dừng lại ở chỗ “gột rửa hoa văn trang
trí” mà không hướng tới thẩm mỹ công nghiệp mới và mang nặng tính
thủ công mỹ nghệ, cũng bởi do chủ trương phản đối công nghiệp sản xuất
hàng loạt.
Chỉ sau khi đại chiến thế giới thứ nhất kết thúc năm
1918 và xu thế phát triển công nghiệp hóa đã được khẳng định thì vấn đề
Design công nghiệp trở thành vấn đề cấp thiết, đòi hỏi có những
quan niệm thẩm mỹ công nghiệp hiện đại tương thích phương thức sản xuất
công nghiệp. Trường Bauhaus ở Weimar của Đức được thành lập trên cơ sở
hợp nhất Trường Mỹ nghệ Weimar do Henry van de Velde [kiến trúc sư, Design
Bỉ, cha đẻ của Trường phái Tân Nghệ thuật Bỉ] làm Giám đốc và
Viện hàn lâm nghệ thuật Weimar do Muthesius làm giám đốc đã xác định được
rõ nét xu hướng tạo dáng công nghiệp mới dựa trên nền tảng lấy công năng
của sản phẩm làm gốc và hình thức phải tuân theo công năng.
Khẩu hiệu nghệ thuật “Hình dáng theo công năng” [Form
follows function] trở thành tôn chỉ nghệ thuật của phái Công
năng chủ nghĩa [Funtionalism] coi trọng công năng hơn hình thức.
Đó cũng chính là phong cách Design công nghiệp tiêu biểu của thế kỉ XX
phù hợp phương thức sản xuất công nghiệp hàng loạt, trở thành mẫu mực
cho việc phát triển Designer công nghiệp ở các nước đang tiến hành công
nghiệp hóa như VN. Design hỗ trợ cho sản xuất công nghiệp hóa
và hiện đại hóa, mang lại hiệu quả kinh tế nhất là cho những ngành công
nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng, đặc biệt trong lĩnh vực Design
đồ họa quảng cáo
Thẩm mỹ công nghiệp hiện đại
MMS = Mode + Modern + Style [Mốt + HIện đại + Phong cách]
Sự khác biệt giữa thẩm mỹ truyền thống có tính hàn lâm
như quan niệm của nghệ thuật tạo hình đối với Design chưa đủ. Thẩm mỹ
công nghiệp hiện đại mang tính thực tiễn và gắn liền với sự tồn tại của
cuộc sống vận động không ngừng. Cái mới, cái khác đời, cái đẹp chưa được
định nghĩa của một sản phẩm vươn tới thì tương lai ngay trong quá trình
tồn tại của nó, khiến cho lỗi mode, lạc hậu là sự biểu hiện của hình thể
không còn hợp thời, bị phế bỏ, thay thế bởi kiểu dáng tân thời hơn ngay
cả khi công năng của chúng còn hữu hiệu. Hàng second-hand tồn tại bởi
giá trị biểu hiện của hình thể đó còn có ý nghĩa trong môi trường khác,
phù hợp nhãn quan và mục đích sử dụng khác. Môn học Thẩm mỹ công nghiệp
là hết sức cần thiết.
LƯỢC SỬ Designer
Nghệ thuật thủ công có truyền thống hàng ngàn năm đã
để lại di sản khổng lồ cho nhân loại. Những phong cách thời đại trong
lịch sử văn minh loài người chứng tỏ tính sáng tạo, trí thông minh và
bàn tay khéo léo của con người đã có từ rất sớm và ngày càng phát triển
đa dạng, phong phú. Thế giới kiến trúc và đồ vật con người tạo ra là một
phần không thể tách rời của nền văn hóa mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Quá
trình mỹ thuật hóa đồ vật nhằm hoàn thiện ngày một cao hơn đời sống vật
chất và tinh thần của con người cũng là cuộc đấu tranh không mệt mỏi của
rất nhiều thế hệ. Văn minh phương Tây và văn hóa phương Đông được thể
hiện qua nhiều lăng kính, một trong số đó là “thiên nhiên thứ hai”,
là thế giới kỹ quyển con người tạo dựng và được thể hiện qua những phong
cách đặc trưng riêng, rõ ràng và phân biệt. Đặc biệt phong cách phương
Đông với bề dày truyền thống và sự liên tục kéo dài tạo được dấu ấn đặc
sắc, được phương Tây ngày càng ngưỡng mộ.
Những hình thức biểu hiện, những dấu ấn phong cách của
nghệ thuật thủ công tạo được nhờ bàn tay khéo léo, nhờ ý chí và sức lực
của con người trong một môi trường tự nhiên và xã hội phù hợp. Những phong
cách lớn của các thời đại ngày xưa, Antique cổ đại, Gothic
trung cổ, Phục hưng Renaissance, Baroque cận hiện đại
... là minh chứng của lịch sử văn minh, của khả năng sáng tạo nghệ thuật
và cũng là lý tưởng thẩm mỹ thời đại đã qua. Phong cách thời đại bao trùm
trên một vùng rộng lớn nhiều lãnh thổ, quốc gia, nhưng có lẽ cũng xuất
phát từ những dấu ấn cá nhân, tạo dần thành trường phái, thành phong cách
nhóm để dần hình thành, hưng thịnh và phát triển rộng khắp cho đến khi
một phong cách khác thay thế, thịnh hành.
Design như một ngành nghề đặc biệt của thời
đại công nghiệp, xuất hiện từ giữa thế kỉ XIX. Cách mạng công nghiệp gắn
liền với phương thức chế tạo cơ khí, sản xuất dây chuyền hàng loạt, đã
thay thế dần phương pháp thủ công đơn chiếc truyền thống, sự phân công
lao động thời công nghiệp đã hình thành công việc thiết kế độc lập như
một nghề nghiệp. Trên cơ sở xu hướng phong cách của form thay đổi có các
phân kỳ Design như:
1850 – 1914 : Các phong trào cải cách và Nghệ thuật mới
1850 – 1914 : Các phong trào cải cách và Nghệ thuật mới
1950 – 1980 : Hình dáng tốt và những lựa chọn mới
1980 – nay : Chủ nghĩa Hậu hiện đại và Design đa hướng
Nhiệm vụ của ngành Design đã luôn thay đổi theo
thời gian, luôn được mở rộng và trong thời gian qua đã không còn chỉ dừng
ở việc tạo dáng sản phẩm. Ngay cả khi người ta bỏ qua việc sử dụng thuật
ngữ một cách quá lạm dụng thì rõ ràng ý nghĩa của ngành Design trong tương
lai vẫn gia tăng cùng với việc mở rộng nhiệm vụ của lĩnh vực này. Mặc
dù đang có những than phiền về tình trạng các thị trường bị xé nhỏ, song
sự đa dạng của sản phẩm và hình dáng sẽ tiếp tục gia tăng, bởi sự nỗ lực
để đạt được tính riêng tư và để tạo ra sự phân biệt với các đối thủ cạnh
tranh khác sẽ khuyến khích quá trình phát triển đó.
Bức tranh của tình hình Design hiện hành sẽ ngày một
phức tạp hơn, các nhà lý luận, các nhà phê bình và những người trong cuộc
Designerer sẽ phải hành động giống như ở các lĩnh vực nghệ thuật
đã có từ trước [hội họa, kiến trúc…] và phải chọn cho mình những lĩnh
vực chuyên môn và những vấn đề riêng lẻ đặc biệt.
Tương lai thật khó có thể đoán trước. Chúng ta đã từng
nhận định, thế kỉ XX đã qua có thể được ghi nhớ như thế kỉ của những cao
ốc [mass-building], đa truyền thông [mass-communication],
đại tiêu dùng [mass-consuming] và sản xuất hàng loạt [mass-production],
cũng là thế kỉ của Designer đại chúng [for mass Designer]. Thế
kỉ 21 hiện nay với nền văn minh đã bước sang một trang mới, nền văn minh
tin học, nền kinh tế tri thức, nền sản xuất thích ứng và vì thế, Design
cảm hứng, Design biểu tượng, Designnghệ thuật.
Đó là những thành phố tương lai kiểu ốc đảo, là nhà ở
với những tiện ích tin học, là thông tin vô tuyến hữu hình, là sản phẩm
nghe nhìn và sản phẩm đa năng max-mini [Max công năng – Mini hình
dáng], là phương tiện giao thông tự hành, là sinh hoạt giải trí cộng
đồng, là du lịch nghịch cảnh sinh thái, là thế giới ảo cá thể… Design
kiểu CAD/CAM chuyển sang DBC/MBC [Designer by computer/
manufacturing by computer].[1]
Design PHÁP, ĐỨC, HOA KỲ, ITALIA, NGA VÀ NHẬT
BẢN, NHỮNG NỀN Design TIÊU BIỂU CỦA THẾ KỈ XX
Pháp – Nghệ thuật và văn hóa
Quá trình đơn giản hóa hình thức bề ngoài cũng chính
là quá trình thay đổi về quan niệm thẩm mỹ trước hết ở giới nghệ sĩ trong
mọi lĩnh vực hoạt động nghệ thuật và sau đó là toàn xã hội. Nghệ thuật
mới Art Nouveau ở Pháp là điểnhình quan niệm đề cao vẻ đẹp của
sản phẩm thủ công, của những hoa văn motive thiên nhiên làm hình
thức trang trí căn bản. Điều
đó dẫn đến quá trình “gột rửa” hoa văn phức tạp trước đây thành những
kiểu thức hoa văn tự nhiên, hữu cơ và đơn giản hơn. Mục tiêu của những
phong trào nghệ thuật mới này không chỉ ở Pháp mà ở cả châu Âu khi đó
là nhằm cạnh tranh với sự lớn mạnh và bành trướng của sản xuất công nghiệp
đang thắng thế nhưng cho ra sản phẩm thiếu thẩm mỹ.
Một sản phẩm của trường phái Art
nouveau
Những sản phẩm thủ công từ trường phái Nancy, Paris của
Pháp tiêu biểu cho phong cách Nghệ thuật mới, mệnh danh phong trào nghệ
thuật hiện đại khi bước sang thế kỉ XX. Đó là những sản phẩm đồ gỗ, vải
dệt, đồ thuỷ tinh,
gốm sứ tinh xảo và lộng lẫy như những tác phẩm nghệ thuật, vẫn gợi lại
hình bóng của các phong cách cổ điển Baroque thế kỉ XVII, XVIII
trước đây. Dòng nghệ thuật trang trí như vậy vẫn tiếp tục để đến thập
niên 1920s, 1930s ở Pháp Paris tiếp tục trở thành kinh đô nghệ thuật và
văn hóa thế giới, và Nghệ thuật trang trí Art Déco lại nảy mầm
và kết trái, đạt tới đỉnh cao tại đây dù châu Âu mới trải qua cuộc Thế
chiến lần thứ nhất 1914-1918 tàn khốc và chết chóc.
Nghệ thuật trang trí Art Déco, Nghệ thuật mới
Art Nouveau của Pháp và châu Âu vẫn có đất sống bởi lối sống
phù hoa của giới quý tộc thượng lưu, của cả tầng lớp trung lưu thị dân
đua đòi. Những Hector Guimar, Majorellé, Daum, Gallé là những nghệ sĩ
đã làm nổi danh nghệ thuật thủ công trang trí Pháp.
Cũng ở Paris nghề Design thông qua sự thăng
hoa của ngành thời trang như bằng chứng của quá trình phục hưng kinh tế
châu Âu sau thế chiến lần thứ nhất đã lần đầu tiên được nhắc đến như một
lĩnh vực nghệ thuật và kinh doanh cao quý – Design là kinh doanh
nghệ thuật. Những tên tuổi lớn của ngành thời trang Pháp từ thập niên
1930s luôn tỏa sáng. Đó là Coco Chanel, Pier Cardin, … và những mẫu thời
trang, những buổi trình diễn thời trang như một loại hình nghệ thuật đặc
sắc, vì ở đó có những bộ trang phục đẹp, và trên hết ở đó có những người
mẫu tuyệt sắc, hấp dẫn và đầy mơ mộng. Design và Designerer
từ đó được biết đến một cách hấp dẫn và đầy triển vọng. Kiến trúc sư và
Designerer [gốc Thuỵ Sĩ] Le Corbusier, Designerer P.
Stack … tiêu biểu cho trường phái kiến trúc hiện đại và nền Designer mới
của Pháp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng mang lại cơ hội để
Design công nghiệp lên ngôi, bởi những tranh luận về nghệ thuật
thiết kế theo phương thức thủ công hay công nghiệp đã đến hồi kết. Phương
thức sản xuất công nghiệp hàng loạt thắng thế bởi nhu cầu số lượng cần
bồi đắp sau những mất mát và tàn phá bởi cuộc đại chiến lần 1 của thế
kỉ XX. Design đậm chất nghệ thuật và văn hóa Pháp nhường chỗ
cho Design công năng của người Đức.
Đức – Chủ nghĩa công năng và Hình dáng tốt
Ở
Đức, tại Weimar, trường Bauhaus được thành lập và trang sử mới của ngành
Design công nghiệp bắt đầu.
Lịch sử Design công nghiệp thường được coi như
bắt đầu từ khi có trường Bauhaus, bởi chỉ từ khi có Bauhaus, một phong
cách mới của Design coi trọng tính hiệu quả của sản xuất, coi
Design chính là phương tiện để hoàn thiện sản phẩm trước khi
đưa vào sản xuất hàng loạt nhằm mục tiêu phục vụ đa số con người một cách
tốt nhất mới trở thành một phong cách chính thống của Design
công nghiệp trong thế kỉ XX.
Những tên tuổi lừng danh như Peter Behrens từ trào lưu
Phong cách trẻ, một trong những nhà sáng lập Liên đoàn lao động thủ công
Đức năm 1907, cha đẻ của Design công nghiệp Đức với những đóng
góp ứng dụng Design mẫu mực cho hãng điện dân dụng AEG và góp
phần để có Bauhaus thành lập năm 1919, cũng là người đề cử Walter Gropius
giữ trọng trách quản lý trường Bauhaus.
Chủ nghĩa công năng thắng thế Nghệ thuật mới, và Bauhaus
trở thành cái nôi của phong cách quốc tế công năng chủ nghĩa. Những
bậc thầy của trường phái này như W. Gropius, Ludwig Mies van der Rohe,
Marcel Breuer,… cùng các tác phẩm của mình đã khẳng định ưu thế của Design
công nghiệp, Design sản phẩm không hoa văn trang trí.
Một số thiết kế nổi tiếng từ Bauhaus
Mặc dù thời gian tồn tại của Bauhaus ngắn ngủi 14 năm
nhưng dấu ấn nó để lại rất lớn. Trường Tạo dáng công nghiệp Ulm [1953-1968]
của Đức sau này đã cố gắng noi theo Chủ nghĩa công năng và mong muốn kế
tục Bauhaus, nâng Chủ nghĩa công năng thành phong cách Hình dáng tốt [Good
form, Good Design] để có Chủ nghĩa tân công năng và Chủ
nghĩa công năng trở thành phong cách tiêu biểu của Design công
nghiệp trong suốt giữa thế kỉ XX và đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nói đến Design Đức là nói tới chất lượng và sự hoàn hảo công
năng.
Tp.HCM, 12/2006
ThS. Trần Văn Bình
Hết phần I
|