Thờ cúng tổ tiên được gọi là gì

Thắp hương thờ cúng tổ tiên được gọi là gì? Thắp hương thờ cúng tổ tiên có phải là mê tín? Hiện nay, vẫn còn khá nhiều người nhầm lẫn giữa các khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan. Bài viết dưới đây của Thoidaihaitac.vn sẽ cung cấp thông tin và giải đáp chi tiết về vấn đề trên. Mời các bạn tham khảo. Mọi thắc mắc các bạn vui lòng để lại ý kiến ​​trong phần bình luận, Thoidaihaitac sẽ giải đáp nhanh nhất có thể.

Tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam

  • 1. Thắp hương thờ cúng tổ tiên được gọi là gì?
  • 2. Tôn giáo là gì?
  • 3. Niềm tin là gì?
  • 4. Mê tín dị đoan là gì?
  • 5. Thắp hương thờ cúng tổ tiên có phải là mê tín?
Việt Nam là đất nước của nhiều tôn giáo, tín ngưỡng.

1. Thắp hương thờ cúng tổ tiên được gọi là gì?

Hỏi: Thắp hương thờ cúng tổ tiên được gọi là?

  • Tôn giáo.
  • B. Tín ngưỡng.
  • C. Mê tín dị đoan.
  • D. Người truyền giáo

Đáp án: B. Niềm tin là câu trả lời đúng.

Giải thích:

Thờ cúng tổ tiên [hay còn gọi là đạo ông bà] là phong tục thờ cúng tổ tiên đã khuất của nhiều dân tộc Châu Á, đặc biệt phát triển trong văn hóa Việt Nam, văn hóa Trung Hoa, văn hóa Việt Nam. Hàn Quốc và Văn hóa Đông Nam Á.

Nhiều người Việt Nam ngoài tôn giáo của mình thường thờ cúng tổ tiên. Đại đa số các gia đình đều có bàn thờ tổ tiên trong nhà, ít nhất cũng có ảnh treo trang trọng, nhưng đó không phải là một tôn giáo mà là vì lòng hiếu kính ông bà cha mẹ của người Việt. , chú tuyệt vời. Đây là một tín ngưỡng rất quan trọng và gần như không thể thiếu trong phong tục của người Việt Nam.

2. Tôn giáo là gì?

Tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống văn hóa, tín ngưỡng và niềm tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định cụ thể, thế giới quan, được thể hiện qua kinh sách, tiết lộ, v.v. siêu việt, hoặc yếu tố tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại không có sự đồng thuận học thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo.

Có khoảng 10.000 tôn giáo khác nhau trên toàn thế giới, nhưng khoảng 84% dân số thế giới theo một trong năm nhóm tôn giáo lớn nhất, đó là Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và các hình thức tôn giáo phổ biến khác. thời gian.

Việt Nam nằm ở trung tâm của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên tương đối phong phú và đa dạng. Thời xa xưa, người Việt Nam sống chủ yếu dựa vào khai thác thiên nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên [natures] đã sớm gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam là ngã tư giao lưu của nhiều dân tộc và nhiều nền văn minh. Hai yếu tố đó khiến Việt Nam trở thành một quốc gia đa tôn giáo.

Hầu hết người Việt Nam đều có nhu cầu tôn giáo, tuy nhiên, hầu hết họ không thuần thành theo một tôn giáo cụ thể nào. Một người vừa có thể đi chùa vừa có thể vào cung, miễn là làm cho họ yên tâm, có thể thỏa mãn yêu cầu của họ. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một đặc điểm trong đời sống tín ngưỡng – tôn giáo của người Việt là tính ứng dụng. Tôn giáo là phục vụ những nhu cầu cần thiết, tức thời của họ trong cuộc sống.

3. Niềm tin là gì?

Hình ảnh trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.

Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua các nghi lễ gắn với phong tục, tập quán truyền thống nhằm đem lại sự bình yên về mặt tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.

Tín ngưỡng dân tộc và dân gian. Niềm tin có tổ chức không khắt khe như tôn giáo. Nói đến tín ngưỡng, người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc, tộc người có một số đặc điểm chung, còn tôn giáo thường không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có hệ thống tổ chức hành chính như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng rời rạc, rời rạc. Đức tin, nếu được phát triển đến một mức độ nhất định, có thể trở thành một tôn giáo.

Vì là nước có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng nên tín ngưỡng của người Việt Nam rất đa dạng và phong phú như thờ cây, thờ người, thánh, vật, tổ tiên. bà, thờ mẫu …

4. Mê tín dị đoan là gì?

Mê tín là tin vào những điều mơ hồ, không phù hợp với bản chất, dẫn đến hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình và cộng đồng về sức khỏe, thời gian, tài sản, tính mạng. Mê tín dị đoan bao gồm các hành vi của ông bà tổ tiên, tin vào việc xem bói, xăm mình, tin vào ngày tốt, tháng xấu, tin vào số mệnh tốt, xem bói, cúng sao, giải hạn, cúng kem, tin bùa chú và thần chú, tin và cầu nguyện để vượt qua tai nạn …

5. Thắp hương thờ cúng tổ tiên có phải là mê tín?

Như đã nói ở phần 1, thắp hương thờ cúng tổ tiên không phải là mê tín mà là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã khuất.

Người Việt Nam là một trong những dân tộc có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên sâu sắc và sớm nhất, nó gần như đã trở thành một tín ngưỡng: Đạo thờ ông bà. Người phương Tây coi trọng ngày sinh, người Việt Nam coi trọng ngày mất. Họ cho rằng người đã khuất nơi chín suối. Bàn thờ tổ tiên luôn được đặt ở nơi trang trọng nhất.

Trước đây, khi cúng bao giờ cũng có nước [hoặc rượu] cùng với các vật tế khác như vàng mã. Sau khi cúng, vàng mã được đốt lên rồi đổ rượu hoặc nước lên tro – khói bay lên trời, nước hòa với lửa ngấm xuống đất – đó là cách tổ tiên tiếp nhận. Hành động đó được cho là sự hòa quyện của Thủy – Hỏa [âm dương] và Trời – Đất – Nước [tam tài] mang ý nghĩa triết lý sâu sắc.

Đây là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Việt Nam, thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, luôn nhớ về cội nguồn và biết ơn đấng sinh thành.

Bài viết trên đã giải đáp thắc mắc Thắp hương thờ cúng tổ tiên gọi là gì? Mời quý độc giả tham khảo các bài viết liên quan tại chuyên mục Học, là gì? Các văn bản pháp luật và Hỏi đáp của Thoidaihaitac.vn.

  • Việc cúng Thanh minh 2022 có phải là mê tín dị đoan?
  • Bạn sẽ làm gì để thực hiện tốt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân?
  • Lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi như thế nào?

AMBIENT-ADSENSE/

Câu hỏi này thuộc đề thi trắc nghiệm dưới đây, bấm vào Bắt đầu thi để làm toàn bài

CÂU HỎI KHÁC

Hay còn gọi là đạo ông bà, đạo thờ tổ tiên, cũng gọi là tục thờ cúng tổ tiên thể hiện truyền thống uống nước, nhớ nguồn, hiếu kính cha mẹ, ông bà. Đây là truyền thống có từ lâu đời ở Việt Nam. Không chỉ có tộc người Kinh mà nhiều tộc người thiểu số khác ở Việt Nam cũng có tục này. Trong các gia đình người Việt và một số tộc người thiểu số khác, đều có bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng được bài trí ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Bàn thờ luôn được giữ gìn sạch sẽ, tinh khiết. Đây là chỗ để tiến hành các hoạt động cầu cúng, lễ bái tưởng nhớ tổ tiên. Rất khó có thể tìm thấy một văn bản thành văn nào nói về nguồn gốc, sự hình thành, phát triển của thờ cúng tổ tiên.

Khái niệm thờ cúng tổ tiên chỉ sự tôn kính và cầu mong sự phù trợ của con cháu đang sống dành cho tổ tiên là người có quan hệ huyết thống với họ nhưng đã qua đời. Hành vi thể hiện sự tôn kính và cầu mong ấy biểu hiện ở sự ghi nhận công lao và đạo đức, tưởng nhớ, đánh thức sự quan tâm, dâng lễ và cầu khấn.

Thờ cúng tổ tiên thường có một số đặc điểm chung. Trước tiên tổ tiên dù đã chết được tin và mường tượng rằng vẫn tồn tại ở một dạng thức nào đó và có quyền năng can thiệp đến cuộc sống hiện tại của con cháu đang sống. Thứ hai, sự ảnh hưởng có thể là ban phúc hoặc giáng họa. Trong khi ban phúc là phù hộ cho con cháu có sức khỏe dồi dào và gặp thuận lợi trên mọi hoạt động sống, thì giáng họa thường là hành vi trừng phạt cho sự bất tôn kính hoặc tưởng nhớ không đúng cách, biểu hiện ở việc con cháu phải gánh chịu bệnh tật hoặc gặp chuyện không may. Thứ ba, dù có quan hệ gần gũi với con cháu đang sống, tổ tiên được tin là có cuộc sống độc lập ở cõi riêng. Tổ tiên cũng được tin là có thể đầu thai trở lại gia đình trong các thế hệ tiếp theo. Thứ tư, không gian cho thờ cúng tổ tiên thường được thiết kế ở trong cùng không gian sinh sống riêng tư của gia đình con cháu. Không gian ấy cũng có thể được thiết kế chung nơi không gian sinh hoạt của một cộng đồng. Sau cùng, tổ tiên còn có thể hiểu theo nghĩa rộng là người khai sinh ra cả một nòi giống. Đại đa số người Việt Nam, đặc biệt người dân tộc Kinh vốn chiếm trên 80% dân số, tin vào một tổ tiên chung là Vua Hùng đồng thời thờ cúng tổ tiên của dòng họ và của gia đình mình.

Toan Ánh trong Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam cho rằng qua việc thờ cúng tổ tiên, tại Việt Nam, người khuất và người còn sống luôn luôn như có một sự liên lạc mật thiết. Sự thờ cúng chính là môi trường gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ thần linh. Người Việt quan niệm vong hồn gia tiên luôn ở gần mình, thông qua các hoạt động cầu cúng, lễ bái người sống và người chết có thể liên lạc với nhau.

Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục gọi thờ cúng tổ tiên là phụng sự tổ tiên. Ông viết: xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, cũng là nghĩa vụ của người. Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính cũng một tả khá kỹ về những yếu tố cấu thành của thờ cúng tổ tiên như nơi thờ tự [cơ sở thờ tự tức là nhà thờ hay từ đường], đồ thờ, bài trí của bàn thờ, gia phả, ruộng kỵ, nghi thức hay quy định về tế thủy tổ, cúng vái gia tiên. Nhà thờ [từ đường] là nơi thờ thủy tộc của một dòng họ [ví dụ Nguyễn tộc, Trần tộc, v.v..]. Trong nhà thờ thường có một thần chủ để thờ mãi mãi, không đổi gọi là “Bách thế bất diêu chi chủ”. Đối với những gia đình giàu có, có thể có 4 thần chủ để thờ Cao, Tằng, Tổ, Khảo. Thần chủ thường làm bằng gỗ Táo với ý nghĩa gỗ Táo sống được nghìn năm. Ngoài thần chủ, ban thờ tổ tiên trong nhà thờ họ thường có bộ đèn nến, lư hương, bình hoa, mâm quỳ, hộp trầu, đài nước, v.v.. Bên cạnh đó, vật dụng trang trí trong nhà thờ họ là hoành phi, câu đối, các bức đại tự, v.v… nội dung ghi nhớ, tán tụng công đức của tổ tiên. Tùy từng mức độ giàu có của các gia đình mà đồ dùng là đồ làm bằng thiếc, hay sơn son thếp vàng thếp bạc. Thông thường, mỗi nhà thờ họ đều có cuốn gia phả ghi chép theo thứ tự trước sau, họ tên, chức tước, ngày sinh ngày mất của tổ tông và những thành viên trong dòng họ. Ngoài ra, mỗi nhà thờ họ lại có ruộng kỵ. Ruộng kỵ là hương hỏa của tổ tông để lại hoặc do cả dòng họ chung nhau tậu để làm của chung, lấy hóa lợi để lo việc tế tự. Tuy nhiên, không phải dòng họ hay nhà thờ họ nào cũng có ruộng kỵ. Đối với những dòng họ không có ruộng kỵ, khi cúng tế thì các thành viên trong dòng họ cùng đóng góp để lo việc chung. Về các ngày lễ cúng tổ tiên tại nhà thờ bao gồm: lễ cúng ngày húy nhật ông Thủy tổ [giỗ tổ], lễ hợp tế tháng chạp, lễ cúng các tuần tiết, cúng ngày Tết, lễ cúng nhân các dịp hiếu hỉ, v.v.. Ngoài ra, khi có bất cứ vấn đề gì trong gia đình, dòng họ cần cầu xin hay thông báo với tổ thiên người ta lại tiến hành các nghi thức thờ cúng.

Việc thực hành các nghi lễ thờ cúng tổ tiên do người trưởng họ đảm nhiệm chính cũng như đóng vai trò quyết định các hoạt động thờ cúng cụ thể trong dòng họ sẽ được tiến hành như thế nào. Trong khi thực hành thờ cúng tổ tiên, không thể thiếu được văn khấn. Văn khấn là những quy định tương đối chặt chẽ mang tính khuôn mẫu về cách thức trình bày với tổ tiên trong khi làm lễ. Trước đây, văn khấn thường làm bằng chữ Nho, chữ Nôm, hiện nay đa số dùng chữ quốc ngữ. Cần lưu ý, việc thờ cúng tổ tiên không chỉ là những hoạt động diễn ra tại nhà thờ/từ đường của mỗi dòng họ, hay mỗi bàn thờ của gia đình mà còn diễn ra tại khu mộ phần của gia đình, dòng họ. Trong các dịp thanh minh, Tết âm lịch… con cháu thường ra mộ của ông bà tổ tiên để chăm sóc mộ như sửa sang, dọn dẹp, quét vôi, trồng hoa… và làm lễ. Ngoài ra, khi mộ phần của gia đình, dòng họ bị hư hại, xâm phạm thì gia đình, dòng họ làm lễ tạ mộ.

Trên khắp thế giới, thờ cúng tổ tiên là một dạng thức khá phổ biến bất kể khác biệt về văn hóa, khu vực địa lý hay thể chế chính trị-văn hóa và xã hội. Hoạt động này hiện nay có thể quan sát ở các truyền thống tôn giáo thờ đa thần và ở các khu vực còn duy trì sự tiếp diễn các truyền thống thờ cúng lâu đời như châu Phi, châu Úc, châu Á. So sánh với Trung Quốc chúng ta thấy, Thờ cúng tổ tiên của người Trung Hoa trọng sự đồ sộ, phức tạp, trong khi người Việt Nam chuộng sự thành kính, tinh tế và giản dị. Theo người Việt Nam chỉ cúng giỗ đến 4 đời: kỵ nội [Cao tổ], Cụ nội [Tằng tổ], Ông nội [Tổ], Cha [khảo].

Thờ cúng tổ tiên là một trong những truyền thống tín ngưỡng, tôn giáo lâu đời nhất của Việt Nam, có quan điểm cho rằng truyền thống này chưa bao giờ bị đứt đoạn trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm của dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, một phần do điều kiện sống được nâng cao, nhiều dòng họ đang khôi phục lại nhà thờ họ, nhiều dòng họ chưa có nhà thờ họ thì xây dựng mới, do vậy, thờ cúng tổ tiên lại càng được duy trì và phát triển.

Trên phương diện học thuật, đã từng có những thảo luận về việc thờ cúng tôn giáo có phải là một tôn giáo hay không. Có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm xem thờ cúng tổ tiên như một phong tục, có quan điểm thì cho rằng thờ cúng tôn giáo là một loại hình tôn giáo, cũng có quan điểm cho rằng thờ cúng tổ tiên chỉ là một luật tục như, có quan điểm thì xem đây là một loại hình tín ngưỡng dân gian [Phan Đại Doãn, Nguyễn Đức Lữ, v.v..]. Do có nhiều quan điểm khác nhau như vậy, nên rất khó để có thể kết luận về điều đó. Tuy nhiên, thờ cúng tổ tiên hội tụ những yếu tố căn bản nhất của một tôn giáo đó là niềm tin, các thực hành hay nghi lễ thờ cúng và cộng đồng của những người có chung niềm tin, hay chính là những thành viên trong dòng họ.

Thờ cúng tổ tiên, bên cạnh chức năng, vai trò thỏa mãn nhu cầu tôn kính tổ tiên, thờ phụng tổ tiên còn có nhiều chức năng khác như duy trì, củng cố dòng họ, gắn kết dòng họ, thông qua đó thúc đẩy sự phát triển về các mặt khác của dòng họ như văn hóa, giáo dục, kinh tế, v.v.. Thờ cúng tổ tiên, như trên đã trình bày, được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau như gia đình, dòng họ, cộng đồng và cả dân tộc. Ở Việt Nam tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được xem là thờ cúng tổ tiên ở cấp độ quốc gia, dân tộc. Trong những năm qua, nghi thức thờ cúng Vua Hùng trong ngày giỗ Tổ [10-3 âm lịch] đều được tổ chức một cách trang trọng, theo nghi thức quốc gia, có sự tham dự của các vị lãnh đạo cao nhất của đất nước. Điều đó càng khẳng định thờ cúng tổ tiên là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, có giá trị giáo dục sâu sắc đến các thế hệ con cháu.

Tài liệu tham khảo

1. Toan Ánh, Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Quyển thượng, Nxb TP. Hồ Chí Minh

2. Phan Kế Bính [2005], Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

3. Carl Olson[2011], Religious Studies: The Key Concepts, Routledge, New York

4. Kim Định, Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nguồn sáng xuất bản

5. Hoàng Quốc Hải, Văn hóa phong tục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội

6. Mai Thanh Hải [2002], Từ điển Tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội

7. Nguyễn Đức Lữ [2013], Bàn thêm về thờ cúng tổ tiên, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 12, tr.108-114.

8. Phan Ngọc [2010], Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội

9. Trần Đăng Sinh [2010], Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

10. Đặng Nghiêm Vạn [2003], Bàn về tín đồ và tổ chức của một tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2.

Video liên quan

Chủ Đề