Vùng khứu giác của ổ mũi nằm ở đâu

Mũi là một cơ quan quan trọng và có cấu trúc phức tạp. Do đó, bạn nên tìm hiểu một số thông tin cơ bản về cấu tạo mũi để có biện pháp chăm sóc và bảo vệ mũi hợp lý.

Mũi người là một cơ quan quan trọng và có cấu trúc phức tạp

Mũi của người là bộ phận nhô ra trên khuôn mặt. Hình dạng của mũi được cấu tạo bởi xương mũi, sụn mũi, vách ngăn và các khoang mũi. Cụ thể giải phẫu mũi bao gồm:

Xương mũi bắt đầu từ khoảng giữa chân mày và kết thúc bằng một rãnh mũi răng cưa. Các xương mũi thường thuôn, dài, nhỏ có thể khác nhau về kích thước và hình thức ở từng các nhân.

Xương mũi thường được chia thành hai phần đối xứng nhau ở giữa khuôn mặt. Hai xương mũi được nối với nhau bằng đường khâu giữa mũi và tạo thành sống mũi .

Xương mũi thường bao gồm các bộ phận như:

  • Bề mặt xương: Mặt ngoài thường lồi ra ngoài từ trên xuống và được bao bọc bởi các cơ mũi. Bên trong có một rãnh nhỏ chứa các đường tĩnh mạch.
  • Khớp nối: Xương mũi có bốn khớp nối có tác dụng gắn kết các bộ phận của mũi.

Các sụn mũi hỗ trợ hình thành cấu trúc và hỗ trợ chức năng của mũi. Sụn mũi thường bao gồm Collagen, Protein và một số thành phần khác.

Sụn mũi bao gồm:

  • Sụn mũi nhỏ có tác dụng liên kết các xương mũi lớn với sụn mũi bên.
  • Sun Alar là một sụn linh hoạt tạo thành cấu trúc của lỗ múi.
  • Sụn mũi bên có cấu trúc hình tam giác và nằm bên dưới xương mũi.
  • Sụn vách ngăn còn được gọi là sụn tứ giác có tác dụng kết nối xương mũi với sụn bên.
  • Sụn Vomeonasal còn được gọi là sụn Jacobson có tác dụng kết nối các vạch ngăn và các xương mỏng ngăn cách lỗ mũi.

Mũi ngoài bao gồm khung xương sụn và các thành phần bao phủ. Nhờ các sụn nên mũi ngoài không bị xẹp xuống và có thể đảm bảo cho không khí lưu thông qua khoang mũi.

Mũi ngoài có cấu trúc hình kim tự tháp, gốc mũi nối liền với tráng, phần đỉnh mũi thường là mỗi chóp tròn. Khoảng cách từ gốc mũi đến đỉnh mũi gọi là thân mũi, hay còn gọi là phần mũi [mũi].

Mũi ngoài là phần nhô ra bên ngoài có thể nhìn thấy được của mũi

Mũi trong hay còn gọi là ổ mũi là phần bắt đầu từ lỗ mũi trước đến lỗ mũi sau. Ổ mũi được lót bởi các lớp niêm mạc được phân chia thành hai vùng cụ thể là vùng thở và vùng ngửi. Mũi trong được cấu tạo bởi các bộ phận bao gồm:

Các khoang mũi là một phần không gian rộng lớn bên trong mũi. Các khoang được phân chia thành 2 bộ phận cụ thể bởi các vách ngăn. Sự phân chia này giúp mũi thực hiện đúng chức năng ngửi và điều hòa không khí.

Các khoang mũi được lót bằng các biểu mô đường hô hấp. Đây là các mô được sản xuất từ tế bào cốc tiết chất nhầy. Chất này này có nhiệm vụ duy trì độ ẩm của mũi và bảo vệ mũi khỏi các tác nhân gây dị ứng và kích thích từ môi trường.

Vách mũi gồm phần sau trên là một mảnh xương thẳng, phía trước là sụn vách ngăn mũi [sụn có 4 cạnh] và phần dưới là xương lá mía.

Nền mũi hay còn được gọi là vòm miệng được tạo thành bởi các mỏm khẩu xương hàm trên và các mảnh ngang của xương khẩu cái. Nền mũi thường rộng khoảng 5 cm và thường đi qua các dây thần kinh cảm giác của hệ thống khứu giác.

Ở phía sau khoang mũi có hai lỗ mở được gọi là lỗ mũi sau. Lỗ mũi sau có tác dụng đưa không khí đi vào vòm họng và phần còn lại của hệ thống hô hấp.

Các van mũi chịu trách nhiệm đề kháng với luồng không khí đi vào cơ thể. Van mũi cũng hỗ trợ làm tăng thời gian làm ấm và ẩm không khí trước khi đi vào đường hô hấp.

Van mũi là đường hẹp nhất của đường thở. Van mũi bên ngoài thường lớn hơn van mũi trong vách ngăn.

Tiền đình mũi là phần trước của khoang mũi và được bao bọc bởi sụn. Tiền đình mũi được lót bằng da, nang lông và một số tuyến bã nhờn. Khu vực này thường chứa nhiều vi mạch.

Các biểu mô đường hô hấp nối các xoang gắn chặt vào màng bên dưới của mũi. Ở mỗi xoang cạnh mũi có một lỗ nhỏ cho phép dẫn lưu vào khoang mũi.

Chuyển động của mũi được kiểm soát bởi các nhóm cơ mặt và cổ sâu bên trong da. Có 4 nhóm cơ được liên kết với nhau và chịu trách nhiệm cho các hoạt động của mũi. Một số người có thể sử dụng các cơ này để đóng lỗ mũi và ngăn nước xâm nhập khi ở dưới nước.

Các cơ chịu trách nhiệm cho các hoạt động ở mũi

Niêm mạc mũi bao gồm nhiều sụn và được bao phủ bởi nhiều biểu mô trụ tầng có nhiều lông chuyển. Niêm mạc mũi bao phủ tất cả bộ phận thuộc về mũi trong và chứa rất nhiều chất nhầy.

Bên dưới lớp biểu mô niêm mạc là đám rối tĩnh mạch có tác dụng làm ấm không khí trước khi đi vào phổi. Ở dưới các xương xoắn, đám rối tính mạch phát triển dưới dạng đám rối hang [plexus cavernosi concharum]. Do đó, khi các đám rối này bị tổn thương, người bệnh thường chảy rất nhiều máu [hay còn gọi là máu cam].

Mũi là cơ quan đầu tiên của đường hô hấp trên. Do đó chức năng chính của mũi là cung cấp và điều hòa không khí vào phần còn lại của hệ thống hô hấp và phổi. Mũi cũng góp phần lọc không khí, loại bỏ bụi và các hạt khác ra khỏi không khí bằng các lông mũi.

Các cấu trúc bên trong khoang mũi tạo thành một hệ thống điều hòa [làm ẩm – làm ấm], lọc không khí và duy trì môi trường lành mạnh bên trong phổi.

Chức năng chính của mũi là hô hấp và khứu giác

Mũi cũng đóng vai trò chính trong hệ thống khứu giác. Mũi là khu vực của các tế bào thần kinh khứu giác và chịu trách nhiệm để con người cảm nhận được mùi.

Niêm mạc mũi ở khoang trên chứa một tuyến khứu giác hoặc các tuyến hỗ trợ khứu giác. Điều này giúp cơ thể phân luồng không khí và đưa mùi đến vùng khứu giác.

Lời nói thường được tạo ra bởi áp lực từ phổi. Tuy nhiên, một số người có thể phát ra lời nói bằng cách sử dụng không khí từ mũi, được gọi là âm mũi.

Để phát ra âm thanh từ mũi, bạn cần hạ thấp vòm miệng để phát ra các nguyên âm và phụ âm bằng cách để không khí thoát ra từ miệng và mũi.

Để ngửi được mùi, các phân tử mùi cần tiếp cận với mũi. Ở đầu mũi, ngay phía sau cánh mũi chứa các tế bào thần kinh có hình dạng như các lông mao. Khi các phân tử mùi tiếp xúc với lông mao sẽ kích hoạt các tế bào thần kinh để bạn nhận biết mùi.

Thông thường, mỗi người có khoảng 1 tỷ các tế bào khứu giác. Do đó, diện tích tiếp xúc của các phân tử mùi với các tế bào khứu giác khoảng 500 – 700 cm2. Điều này giúp con người có khứu giác tương đối nhạy và phân biệt được nhiều mùi khác nhau.

Mũi là bộ phận đầu tiên của hệ thống hô hấp và là cơ quan chính trong hệ thống khứu giác để cảm nhận mùi. Mũi rất dễ bị tổn thương và rối loạn chức năng, do đó bạn nên tìm hiểu về cấu tạo và chức năng mũi để có biện pháp chăm sóc phù hợp.

Mũi là phần đầu của hệ hô hấp, có nhiệm vụ chủ yếu là dẫn khí, làm sạch và sưởi ấm không khí trước khi vào phổi, đồng thời là cơ quan khứu giác. Mũi gồm có 3 phần: mũi ngoài, mũi trong hay ổ mũi, các xoang cạnh mũi.

Mũi ngoài

Mũi ngoài lồi lên ở giữa mặt, có dạng  hình tháp 3 mặt mà mặt nhỏ nhất là 2 lỗ mũi trước, 2 mặt bên nằm ở 2 bên.

Phía trên là gốc mũi, ở giữa 2 mắt, một gờ dọc tiếp tục từ gốc mũi xuống dưới là sống mũi và tận cùng là đỉnh mũi.

Sau sống mũi là vách mũi, hai bên là 2 cánh mũi.

Giữa vách mũi và cánh mũi là 2 lỗ mũi trước. Giữa cánh mũi và má là rãnh mũi má.

Mũi ngoài được cấu tạo bởi một khung xương sụn, cơ và da, bên trong được lót bởi niêm mạc.

Hình. Khung xương sụn của mũi ngoài

1. Xương mũi.     2. Các sụn mũi

Mũi trong hay ổ mũi

Gồm 2 ổ mũi, nằm ngay dưới nền sọ và trên khẩu cái cứng, hai ổ cách nhau bởi vách mũi, thông với bên ngoài qua lỗ mũi trước và thông với hầu ở sau qua lỗ mũi sau. Mỗi ổ mũi có 4 thành: trong, ngoài, trên và dưới. Có nhiều xoang nằm trong các xương lân cận, đổ vào ổ mũi.

Tiền đình mũi

Là phần đầu tiên của ổ mũi, hơi phình ra, tương ứng với phần sụn cánh mũi lớn. Phần lớn tiền đình mũi được lót bởi da có nhiều lông và tuyến nhầy để cản bụi.

Lỗ mũi sau

Là nơi thông thương giữa ổ mũi với tỵ hầu. Gồm 2 lỗ, cách nhau bởi vách mũi.

Thành mũi trong

Thành mũi trong hay vách mũi có có hai phần:

Phần sụn: ở trước, gồm trụ trong sụn cánh mũi lớn [tạo nên phần màng di động phía dưới của vách mũi] và sụn vách mũi, sụn lá mía mũi.

Phần xương: ở sau, do mảnh thẳng đứng của xương sàng và xương lá mía tạo nên.

Hình. Thành trong của mũi

1. Xoang bướm   2. Xương lá mía   3. Lỗ mũi sau   4. Mảnh thẳng đứng xương sàng   5. Sụn vách mũi  6. Khẩu cái cứng

Trần ổ mũi

Trần của ổ mũi do một phần của các xương: mũi, trán, sàng và thân xương bướm tạo nên.

Nền ổ mũi

Nền ổ mũi là khẩu cái cứng, ngăn cách giữa ổ mũi và ổ miệng.

Thành mũi ngoài

Tạo nên bởi xương hàm trên, xương mũi, xương lệ, mảnh thẳng xương khẩu cái, mê đạo sàng và mỏm chân bướm.

Có 3-4 mảnh xương cuốn cong, nhô vào ổ mũi gọi là các xoăn mũi: xoăn mũi dưới, xoăn mũi giữa, xoăn mũi trên và đôi khi có thêm xoăn mũi trên cùng. Các xương xoăn mũi tạo với thành ngoài ổ mũi các ngách mũi tương ứng.

Niêm mạc mũi

Lót mặt trong ổ mũi, liên tục với niêm mạc các xoang, niêm mạc hầu...

Niêm mạc mũi được chia thành 2 vùng:

Vùng khứu giác, gần trần ổ mũi, niêm mạc có nhiều đầu mút thần kinh khứu giác.

Vùng hô hấp: là phần lớn phía dưới ổ mũi. Niêm mạc có nhiều mạch máu, tuyến niêm mạc và tổ chức bạch huyết có chức năng sưởi ấm, làm ẩm không khí, lọc bớt bụi và sát trùng không khí trước khi vào phổi.

Hình. Thành ngoài ổ mũi

1. Xoang trán    2. Ngách mũi giữa   3. Ngách mũi dưới

Các xoang cạnh mũi

Gồm có 4 đôi là: xoang hàm trên, xoang trán, xoang sàng và xoang bướm. Bình thường chúng đều rỗng, thoáng và khô ráo, chứa không khí có nhiệm vụ cộng hưởng âm thanh, làm ẩm niêm mạc mũi, sưởi ấm không khí và làm nhẹ khối xương đầu mặt.

Hình. Các xoang cạnh mũi

1. Xoang trán   2. Mê đạo sàng  3. Xoang bướm   4. Các xoang sàng   5. Xoang hàm trên

Xoang hàm trên: là xoang lớn nhất, nằm trong xương hàm trên, hai bên ổ mũi. Ðổ vào ổ mũi ở ngách mũi giữa.

Xoang trán: hai xoang phải và trái cách nhau bởi vách xương trán và thường không cân xứng nhau, đổ vào ngách mũi giữa qua ống mũi trán.

Xoang sàng: nằm trong mê đạo sàng. Gồm 3 - 18 xoang nhỏ, chia thành 3 nhóm:

Nhóm trước và giữa thường được gọi chung xoang sàng trước đổ vao ngách mũi giữa.

Nhóm sau được gọi là xoang sàng sau đổ vào ngách mũi trên.

Xoang bướm: nằm trong thân xương bướm. Ðổ vào ngách mũi trên hoặc ngách mũi trên cùng.

Video liên quan

Chủ Đề