Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

Hiện tại, Vinamilk có hơn 200 mặt hàng bao gồm sữa và các sản phẩm từ sữa như: sữa đặc, kem, phô mai, sữa đậu nành, nước ép, café, bánh, kẹo, … Số lượng các mặt hàng này đang được tiêu dùng hàng ngày với số lượng lớn trên toàn bộ 63 tỉnh thành trong nước cũng như được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài tiêu thụ.

Làm thế nào để Vinamilk có thể kiểm soát các hoạt động từ việc sản xuất cho tới khi phân phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng.

Cùng ALS tìm hiểu chi tiết hơn về chuỗi cung ứng của Vinamilk thông qua bài viết dưới đây.

1. Mô hình chuỗi cung ứng của Vinamilk?

Vinamilk là nhà sản suất sữa hàng đầu tại Việt Nam. Danh mục sản phẩm của Vinamilk bao gồm: sản phẩm chủ lực là sữa nước và sữa bột; sản phẩm có giá trị cộng thêm như: sữa đặc, yoghurt ăn và yoghurt uống, kem và phô mai.

Mô hình chuỗi cung ứng của Vinamilk quản trị bao gồm 3 dòng:

- Dòng sản phẩm (đã nói ở trên)

- Dòng thông tin

- Dòng tài chính

Bạn có thể biểu đồ dưới đây để hiểu một cách tổng quan hơn về mô hình chuỗi cung ứng của thương hiệu này.

Trong đó:

- Phần mũi tên màu đỏ thể hiện: Luồng dịch chuyển của dòng sản phẩm

- Phần mũi tên màu xanh nhạt thể hiện: Luồng trao đổi thông tin

- Phần mũi tên màu xanh đậm: Thể hiện sự ra vào của dòng tài chính

Chi tiết hơn về các phần trong chuỗi cung ứng Vinamilk, chúng ta sẽ nói sâu hơn ở phần tiếp theo của bài viết.

Các thành phần tham gia vào chuỗi cung ứng của Vinamilk?

1. Nguồn cung ứng đầu vào cho chuỗi cung ứng của Vinamilk

Đầu vào của công ty sữa Vinamilk gồm: nguồn nguyên liệu nhập khẩu và nguồn nguyên liệu thu mua từ các hộ nông dân nuôi bò, nông trại nuôi bò trong nước.

- Nguồn nguyên liệu nhập khẩu: Vinamilk lựa chọn những nguồn cung cấp nguyên liệu từ các nước có nền nông nghiệp tiên tiến, đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn và chất lượng. Các nguồn cung cấp nguyên liệu chính hiện nay của Vinamilk là Mỹ, New Zealand, và Châu Âu. Một số nhà cung cấp tiêu biểu như:

Tên nhà cung cấp

Sản phẩm cung cấp

 Fonterra (SEA) Pte Ltd

Sữa bột nguyên liệu

Hoogwegt International BV

Sữa bột nguyên liệu

 Perstima Binh Duong

Vỏ hộp bằng thép

Tetra Pak Indochina

Bao bì bằng giấy

- Nguồn nguyên liệu trong nước: Công ty thành lập các trung tâm thu mua sữa tươi có vai trò thu mua nguyên liệu sữa tươi từ các hộ nông dân, nông trại nuôi bò và thực hiện cân đo khối lượng sữa, kiểm tra chất lượng sữa, bảo quản và vận chuyển đến nhà máy sản xuất. Trung tâm sẽ cung cấp thông tin cho hộ nông dân về chất lượng, giá cả và nhu cầu khối lượng nguyên vật liệu. Đồng thời, trung tâm thu mua sẽ thanh toán tiền cho các hộ nông dân nuôi bò.

2. Khâu sản xuất thành phẩm cho chuỗi cung ứng của Vinamilk

Vinamilk sử dụng công nghệ sản xuất và đóng gói hiện đại tại tất cả các nhà máy. Công ty đã tiến hành nhập khẩu công nghệ từ các nước Châu Âu như: Đức, Ý và Thụy Sĩ để ứng dụng vào dây chuyền sản xuất và cũng là công ty duy nhất tại Việt Nam sở hữu hệ thống máy móc sử dụng công nghệ sấy phun do Niro của Đan Mạch, hãng dẫn đầu thê giới về công nghệ sấy công nghiệp, sản xuất. Ngoài ra, Vinamilk còn sử dụng các dây chuyền sản xuất đạt chuẩn quốc tế do Tetra Pak cung cấp để cho ra sản phẩm sữa và các sản phẩm khác có liên quan.

Vinamilk đang sở hữu các nhà máy sản xuất sữa ở New Zealand, Mỹ, Balan và 13 nhà máy sản xuất sữa hiện đại tại Việt Nam từ Bắc vào Nam, đặc biệt là “siêu nhà máy” sữa Bình Dương tại KCN Mỹ Phước 2 với diện tích 20 hecta.

 Ngoài ra, Vinamilk còn có các phòng thí nghiệm đều đạt chứng nhận ISO 17025 cho lĩnh vực hóa học và sinh học. Toàn bộ nhà máy đang hoạt động trong khối sản xuất của Vinamilk đều có hệ thống quản lý môi trường được chứng nhận đạt chuẩn ISO 14001:2004.

3. Khâu phân phối sản phẩm đầu ra cho chuỗi cung ứng của Vinamilk

* Tại thị trường nước ngoài:

Các sản phẩm của Vinamilk được xuất khẩu tới hơn 40 quốc gia và vùng lãn thổ trên Thế giới như: Campuchia, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Canada, Mỹ, Úc, ... Các mặt hàng xuất khẩu gồm: sữa bột trẻ em, bột dinh dưỡng, sữa đặc, sữa nước, nước giải khát, sữa đậu nành, sữa chua. 

* Tại thị trường Việt Nam

Vinamilk có mạng lưới phân phối mạnh và rộng khắp trên cả nước, giúp người tiêu dùng có thể tiếp cận đến các sản phẩm một cách thuận tiện, nhanh chóng và trong điều kiện tốt nhất.

- Hệ thống các đối tác phân phối (Kênh General Trade – GT)

- Các chuỗi hệ thống siêu thị trên toàn quốc (Kênh Modern Trade - MT)

- Hệ thống Cửa hàng Giới thiệu và bán sản phẩm Vinamilk trên Toàn Quốc

- Phân phối trực tiếp đến các khách hàng là các xí nghiệp, trường học, khu vui chơi giải trí (Kênh KA).

Hy vọng bài viết trên đã giúp bạn hiểu hơn được phần nào về chuỗi cung ứng của Vinamilk. Nếu có thắc mắc, hay câu hỏi nào cần tư vấn về các dịch vụ cho chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, quý khách có thể liên hệ ngay với các chuyên gia của chúng tôi để nhận hỗ trợ nhanh nhất.

Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk
Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk
Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk
Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được công nhận còn ít

Mô hình chuỗi giá trị ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp

Phát triển các mô hình liên kết chuỗi giá trị ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp đã và đang trở thành vấn đề thời sự.

Đầu ra bền vững cho mô hình nông nghiệp công nghệ cao

Nghẽn vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao

Xu hướng đầu tư nông nghiệp công nghệ cao

Đặc biệt, bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cùng với những yêu cầu về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao giá trị của nông sản phẩm đã tạo dựng những mối quan hệ giữa ngân hàng, doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu... Nhiều doanh nghiệp đầu mối đầu tư triển khai các chuỗi liên kết giá trị và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cho lĩnh vực này bước đầu được triển khai, nhưng cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.

Xây dựng chuỗi giá trị cho các sản phẩm nông sản là một trong những giải pháp quan trọng để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững của toàn ngành Nông nghiệp. Thời gian qua, một số mô hình chuỗi giá trị đã được hình thành và chứng minh hiệu quả rõ rệt.

Chuỗi giá trị giữa ngân hàng và Tập đoàn TH True Milk

Tập đoàn TH của Việt Nam được biết tới là nhà cung cấp sữa tươi sạch hàng đầu trong nước và vươn tầm quốc tế. Thành công của chuỗi giá trị giữa ngân hàng và doanh nghiệp TH True Milk cũng đã được khẳng định.

Ngày 31/1/2018, tại quận Volokolamsk, tỉnh Moscow của Nga đã diễn ra Lễ Khánh thành trang trại bò sữa sản lượng cao TH. Đây là trang trại bò sữa sản lượng cao đầu tiên của tập đoàn TH trong khuôn khổ Dự án Tổ hợp chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa công nghệ cao (từ công nghệ đang sử dụng tại Việt Nam của TH True Milk) và một số dự án về thực phẩm với tổng vốn đầu tư 2,7 tỷ USD tại Liên bang Nga (Hà Nguyễn, 2020).

Trước đó, Dự án Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa công nghệ cao tại huyện Vị Xuyên, Hà Giang được giới thiệu là có sự tư vấn đầu tư bởi BacABank và vận hành bởi Công ty TNHH trang trại bò sữa công nghệ cao Hà Giang, thuộc tập đoàn TH, có tổng vốn đầu tư 2.500 tỷ đồng đã được khởi công xây dựng, cũng sử dụng công nghệ của nước ngoài (BacA Bank, 2020)

Hiện nay trong thực tế tồn tại nhiều mô hình liên kết chuỗi giá trị khác nhau. Bên cạnh các mô hình liên kết hoàn chỉnh, NHTM cho vay doanh nghiệp đầu mối để cung ứng vật tư đầu vào và thu mua sản phẩm cho hộ nông dân liên kết thì vẫn tồn tại các mô hình liên kết mà doanh nghiệp chỉ cam kết thu mua sản phẩm cho người dân, do vậy cả doanh nghiệp đầu mối và các hộ dân tham gia đều phải vay vốn NHTM.

Dự án "Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp công nghệ cao" được khởi công xây dựng từ năm 2009 tại Nghệ An, tới nay TH đã sở hữu trang trại bò sữa tập trung công nghệ cao lớn nhất Châu Á với quy mô đàn bò 45.000 con; nhà máy chế biến sữa công suất giai đoạn 1 đạt 200.000 tấn/năm. Sản phẩm sữa mang thương hiệu TH true MILK của tập đoàn TH đã chiếm hơn 40% thị phần trong phân khúc sữa tươi thị trường Việt Nam. Công nghệ được mua trọn gói của Israel (BacA Bank, 2020).

Sự thành công của Tập đoàn TH phải khẳng định là phần nào có được nhờ mối liên hệ chặt chẽ của BacABank trong tài trợ vốn trong chuỗi liên kết giá trị. Tuy nhiên, vai trò của trường đại học, viện nghiên cứu khoa học, hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo của Việt Nam trong mô hình chuỗi liên kết giá trị này rất mờ nhạt, hầu hết các tiến bộ khoa học công nghệ là của nước ngoài.

Thương hiệu nông sản an toàn VinEco

VinEco là thương hiệu nông sản an toàn do Tập đoàn Vingroup thành lập. VinEco đã đầu tư 14 nông trường, 3.000 ha nông nghiệp công nghệ cao sau hơn 5 năm gia nhập thị trường này. Mô hình chuỗi giá trị của VinEco còn có sự tham gia của 1.000 hợp tác xã - hộ nông dân liên kết hợp tác, 2.000 tấn nông sản tiêu thụ mỗi tháng và hiệu ứng “VinEco” lan tỏa trên trị trường… Các nông trường được quy hoạch thiết kế một cách khoa học gồm: khu sản suất đồng ruộng, khu nhà kính, khu sơ chế, đóng gói tự động, khu bảo quản. Đến năm 2020, tổng diện tích sản xuất của VinEco lên đến gần 3.000 ha, trong đó đã đưa vào canh tác gần 1.000 ha (Hải Đăng, 2020)

Bên cạnh việc mở rộng về quy mô sản xuất, các nông trường VinEco còn tiên phong trong việc đưa công nghệ nông nghiệp tiên tiến hàng đầu thế giới vào Việt Nam. Điển hình là công nghệ trồng trọt của Kubota (Nhật Bản), công nghệ tưới nhỏ giọt và tưới phun mưa của Netafim (Israel), công nghệ sản xuất trong nhà màng của TAP, trồng cây thủy canh bằng kỹ thuật màng mỏng dinh dưỡng NFT, công nghệ trồng cây rau mầm Microgreen…

Chuỗi giá trị của Vinamilk

Năm 2006, Vinamilk là doanh nghiệp tiên phong phát triển trang trại bò sữa với quy mô công nghiệp hiện đại nhất lúc bấy giờ với số tiền đầu tư 500 tỷ đồng. Toàn bộ hệ thống trang trại được xây dựng khép kín, tự động hóa với giống bò được tuyển chọn kỹ lưỡng nhằm đem đến năng suất sữa cao nhất, qua đó giúp Vinamilk chủ động được 50% nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Tổng đàn bò của Vinamilk từ 3.000 con (năm 1991) tăng lên 120.000 con năm 2017 (tổng đàn bò cung cấp sữa cho công ty bao gồm các trang trại của Vinamilk và bà con nông dân có ký kết hợp đồng bán sữa cho Vinamilk tham gia trong chuỗi giá trị), mỗi ngày cung cấp khoảng 750 tấn sữa tươi nguyên liệu (Vinamilk, 2020).

Với kế hoạch phát triển trang trại mới, công ty đưa tổng số đàn bò của Vinamilk từ các trang trại và của các nông hộ tham gia chuỗi giá trị liên kết lên khoảng 200.000 con vào cuối năm 2021. Sản lượng nguyên liệu sữa dự kiến đến năm 2022 sẽ tăng lên gấp đôi so với 5 năm trước, đạt 1.000 - 1.200 tấn/ngày, đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu sữa phục vụ nhu cầu trong nước và cả xuất khẩu. Với chiến lược này, nguồn cung sữa nguyên liệu trong nước sẽ tiếp tục tăng cao trong 5 năm tới: 2022-2025, góp phần làm giảm tỷ lệ phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Vinamilk (2020)

Chuỗi liên kết của AGPPS tại một số địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long

Ngày 17/1/2014, Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) đã ký hợp đồng tín dụng trị giá 70 triệu USD với Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam để tiếp tục phát triển mô hình Cánh đồng mẫu lớn. Trước đó, từ năm 2010, AGPPS đã bắt đầu thực hiện "Chuỗi sản xuất lúa gạo theo quy trình bền vững" thông qua mô hình Cánh đồng mẫu lớn, tạo ra chuỗi giá trị gắn liền từ sản xuất của hộ nông dân đến cung ứng và tiêu thụ của doanh nghiệp, nhưng đến năm 2014 mới có ngân hàng nước ngoài đầu tiên chính thức tham gia chuỗi giá trị liên kết với doanh nghiệp – hộ nông dân (AGPPS, 2020).

AGPPS đã xây dựng vùng nguyên liệu, ký hợp đồng tiêu thụ lúa tươi với bà con nông dân. Nông dân được cung ứng giống, thuốc, phân bón với lãi suất 0% suốt vụ, được hỗ trợ miễn phí các khoản bao bì, vận chuyển, sấy và thu mua lúa theo giá thị trường. Nếu giá lúa chưa ưng ý, bà con có thể gửi trong kho 30 ngày không tính phí lưu kho và chờ đến khi giá lúa hợp ý để bán. Thông qua hợp đồng tín dụng triển khai từ đầu năm 2014, Standard Chartered Bank cung cấp một gói hỗ trợ tài chính với sản phẩm thiết kế riêng cho AGPPS. Số tiền tài trợ tín dụng không lớn nhưng những giá trị khác mà Standard Chartered đem lại cho AGPPS, tạo nên chuỗi giá trị giữa ngân hàng – doanh nghiệp và hộ nông dân.

Trong mô hình này, có thể thấy, vai trò của ngân hàng rất rõ nhưng không có sự xuất hiện của trường đại học hay viện nghiên cứu khoa học, trung tâm nghiên cứu khoa học, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nào của Việt Nam.

Khó khăn, vướng mắc trong triển khai chuỗi giá trị ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp

Trong quá trình thực hiện triển khai chuỗi giá trị ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, có một số khó khăn, cụ thể gồm:

Một là, các NHTM cũng như các doanh nghiệp đầu tư vốn tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp có nhiều rủi ro nhưng thiếu cơ chế dự phòng xử lý rủi ro xảy ra, nhất là chính sách bảo hiểm nông nghiệp chưa được triển khai rộng rãi.

Hai là, tài sản hình thành từ các dự án trên đất nông nghiệp phục vụ cho chính hoạt động sản xuất nông nghiệp (nhà kính, ao nuôi...) có giá trị đầu tư lớn nhưng không được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất, gây khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng trong việc định giá và nhận thế chấp tài sản bảo đảm cho khoản vay.

Ba là, việc ký kết hợp đồng liên kết giữa doanh nghiệp và người dân một số nơi còn lỏng lẻo và chưa có chế tài cụ thể để tăng tính ràng buộc, tuân thủ hợp đồng của người dân và doanh nghiệp.

Bốn là, hiện nay, số lượng các doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được công nhận còn ít. Trình tự, thủ tục xác nhận vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa được hướng dẫn cụ thể nên các địa phương còn lúng túng và các NHTM chưa có cơ sở để cho vay.

Năm là, hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, trung tâm nghiên cứu khoa học, doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo chưa gắn với thực tiễn, chưa tạo lập được mối liên kết với các doanh nghiệp, hộ nông dân để hình thành nên chuỗi giá trị từ sản xuất, thu mua, chế biến đến tiêu thụ và xuất khẩu.

Một số khuyến nghị

Từ những ví dụ tiêu biểu nêu trên, để phát triển các mô hình liên kết chuỗi giá trị ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, những vấn đề cần lưu ý gồm:

Thứ nhất, đối với các mô hình liên kết chuỗi giá trị: Hiện nay trong thực tế tồn tại nhiều mô hình liên kết chuỗi giá trị khác nhau. Bên cạnh các mô hình liên kết hoàn chỉnh, NHTM cho vay doanh nghiệp đầu mối để cung ứng vật tư đầu vào và thu mua sản phẩm cho hộ nông dân liên kết thì vẫn tồn tại các mô hình liên kết mà doanh nghiệp chỉ cam kết thu mua sản phẩm cho người dân, do vậy cả doanh nghiệp đầu mối và các hộ dân tham gia đều phải vay vốn NHTM. Trong nhiều trường hợp, đòi hỏi sự chủ động, mạnh dạn của các NHTM đứng ra làm đầu mối của chuỗi liên kết hoặc cần chấp nhận cho hộ dân vay vốn không có tài sản bảo đảm.

Thứ hai, về sự ràng buộc trách nhiệm của các bên trong hợp đồng liên kết: Các dự án được đưa vào chương trình thí điểm đều là các dự án điển hình tại địa phương, được UBND cấp tỉnh giới thiệu và trực tiếp chỉ đạo, giám sát vì vậy không phát sinh hiện tượng hộ dân và doanh nghiệp đơn phương phá vỡ hợp đồng liên kết khi có biến động giá sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực tế thì việc phá vỡ cam kết là khá phổ biến, gây thiệt hại không nhỏ cho đối tác liên kết và cả ngân hàng cho vay. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ trách nhiệm của các bên khi tham gia hợp đồng liên kết và vai trò của chính quyền các cấp, các hợp tác xã, các tổ chức chính trị xã hội… trong việc hỗ trợ các bên thực hiện các cam kết của mình.

Thứ ba, Các NHTM Việt Nam nên tham khảo cách làm của Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) và Standard Chartered Bank Việt Nam; của BacABank với TH True Milk; hoạt động chuỗi liên kết giá trị của VinGroup và Vinamilk… mạnh dạn hình thành nên các chuỗi liên kết giá trị giữa ngân hàng-doanh nghiệp và người sản xuất, người nông dân.

Thứ tư, Bộ Tài chính nghiên cứu, triển khai rộng rãi chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng và doanh nghiệp yên tâm trong việc triển khai dự án liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là chính sách bảo hiểm đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực.

Thứ năm, UBND tỉnh, thành phố phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đến người dân, doanh nghiệp những lợi ích thiết thực của việc sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao phục vụ sản xuất quy mô lớn nhằm đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp của địa phương.

Thứ sáu, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Khoa học và công nghệ, có chính sách và biện pháp cụ thể khuyến khích, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu, theo hướng gắn với thực tiễn, gắn với nhu cầu của thị trường, gắn với nhu cầu của doanh nghiệp.

Tài liệu tham khảo:

1. AGPPS (2021), “Báo cáo Đại hội cổ đông năm 2020”, tài liệu lưu hành nội bộ, tháng 4/2021;

2. BacA Bank (2020), “Dự án Chăn nuôi bò sữa và Chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp (TH true MILK); Vinamilk (2017), “Vinamilk đầu tư nhiều trang trại bò sữa công nghệ cao”.

3. Hải Đăng (2017), “VinEco đã đầu tư 14 nông trường, 3.000 ha nông nghiệp công nghệ cao sau 2 năm gia nhập thị trường”;

4. Hà Nguyễn (2018), “TH khánh thành trang trại đầu tiên của dự án 2,7 tỷ USD ở Nga”.

Thông tin tác giả:

(*) TS. Nguyễn Xuân Huynh - Khoa Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội.

(**) Bài đăng Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 11/2021

In bài viết

nông nghiệp mô hình ứng dụng công nghệ cao chuỗi giá trị

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

  • Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

    Điểm nhấn của Tuần hàng Việt Nam 2022 tại Nhật Bản

  • Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

    Xuất khẩu thủy sản 6 tháng đầu năm đạt gần 6 tỷ USD

  • Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

    Vải thiều Việt Nam có giá 600.000 đồng/kg tại Australia

Tin nổi bật

Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

Chủ động điều chỉnh chính sách nhằm ổn định giá xăng dầu trong nước

Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

Đẩy nhanh xây dựng kế hoạch hành động Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030

Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

Chuyển đổi số - nền tảng quan trọng để xây dựng Hải quan số, Hải quan thông minh

Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

Đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội giảm thuế bảo vệ môi trường với xăng, dầu, mỡ nhờn

Ví dụ về chuỗi giá trị của Vinamilk

Trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án Nghị quyết giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu