Ưu nhược điểm của chế độ tỷ giá cố định

Tỷ giá hối đoái cố định [TGHĐCĐ] là tỷ giá hối đoái mà được giữ cố định trong một thời gian dài với biên độ dao động nhỏ ở mức cho phép. Thông thường, đồng nội tệ sẽ được xác định TGHDCD với một đồng ngoại tệ mạnh [USA,GBP.JPY,UREO,CAD.....] hoặc với vàng và được giữ cố định trong một khoảng thời gian dài

Mục lục

  • 1 Sự can thiệp của ngân hàng trung ương [NHTW]
  • 2 Ưu điểm
  • 3 Nhược điểm
  • 4 Tham khảo

Sự can thiệp của ngân hàng trung ương [NHTW]Sửa đổi

  • NHTW sẽ can thiệp để giữ cho tỷ giá ổn định bằng cách bán ngoại tệ ra khi tỷ giá tăng và mua ngoại tệ vào khi tỷ giá giảm để kéo giá ngoại tệ lên

Ưu điểmSửa đổi

  • Ổn định tỷ giá, ôn định kinh tế vĩ mô
  • Do ôn định tỷ giá nên hoạt động kinh doanh và đầu tư nước ngoài được thúc đẩy
  • Tăng tính hợp tác trong thương mại giữa các quốc gia
  • Tạo tính kỷ luật cho các chính sách kinh tế vĩ mô

Nhược điểmSửa đổi

  • Tạo ra sự chênh lệch giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa
  • Làm sai lệch các tính toán
  • Tạo ra tỷ giá chợ đen
  • NHTW phải có một lượng ngoại tế đủ lớn để duy trì tỷ giá và phải thường xuyên giám sát sự biến động của tỷ giá đặc biệt khi có các bất ổn kinh tế - chính trị trên thế giới
  • Ảnh hưởng mạnh bởi cú sốc giá và sự thay đổi tỷ giá của các đồng ngoại tệ

Tham khảoSửa đổi

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Nhằm ổn định lại sự phát triển thương mại quốc tế và thiết lập một trật tự thế giới mới sau thế chiến thứ hai, Mỹ, Anh và 42 nước đồng minh đã họp hội nghị tại Bretton Woods [Mỹ] tháng 7/1944 để bàn bạc xây dựng hệ thống tiền tệ và thanh toán chung. Hội nghị được đánh giá là hội nghị thành công nhất thế kỷ. Tại đây 56 nước ký tên hiệp định chấp nhận thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế [IMF], Ngân hàng Thế giới [WB] và một chế độ tỷ giá hối đoái mới. Theo chế độ này, các nước cam kết duy trì giá trị đồng tiền của mình theo đồng USD hoặc theo nội dung vàng trong phạm vi biến động không quá ± 1% tỷ giá đăng ký chính thức tại quỹ. Nếu các nước tự thay đổi tỷ giá mà không được sự đồng ý của IMF thì sẽ bị phạt cấm vận. NHTW các nước phải can thiệp vào thị trường tiền tệ nước mình để giữ cho tỷ giá nước mình không thay đổi bằng cách mua bán đồng USD. Điều này cũng có nghĩa là các nước phải cùng nhau bảo vệ giá trị cho đồng USD. Đổi lại, Mỹ cam kết ổn định giá vàng ở mức 35USD/ounce vàng [ biến động giá cả không quá 24 cent/ounce]. USD là đồng tiền chủ chốt số 1 với tiêu chuẩn giá cả 1USD = 0,88714 gram vàng.

Ví dụ: Trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng: 1USD = 5,55 FRF thì NHTW Pháp phải duy trì tỷ giá ở mức 1USD = 5,4945 FRF [5,55*99%] đến 1USD = 5,6055 FRF [5,5*101%].

Trong thời kỳ đầu cứ 1USD giấy phát hành ra đã có từ 4 đến 8 USD vàng bảo đảm. Lượng vàng đảm bảo đồ sộ như vậy nên cả thế giới tư bản chỉ lo có vàng để đổi lấy USD mà mua hàng Mỹ chứ không quan tâm đến việc USD có đổi lấy vàng được không. Chính vì vậy, các nước có xu hướng chuyển đổi từ dự trữ vàng sang dự trữ USD để tiết kiệm chi phí. USD đã trở thành tài sản dự trữ quốc tế của các nước vì Mỹ cam kết với các NHTW rằng sẽ chuyển đổi không hạn chế USD ra vàng. Các nước ngày càng mở rộng thương mại với Mỹ, gia tăng dự trữ USD của họ, khiến cho sức hút USD ra ngoài ngày càng tăng. Tổng khối lượng USD trên toàn thế giới vào cuối năm 1944là 28,5 tỷ USD, thì đến cuối năm 1968 đã lên đến gần 100 tỷ USD. Trong 25 năm độc quyền phát hành tiền tệ, Mỹ đã lợi dụng đồng USD để thu hút của cải các nơi trên thế giới về tay mình. Hàng trăm tỷ USD được thả lang thang đi khắp các nước mà không có gì bảo đảm, gây ra lạm phát USD. Chế độ Bretton Woods ngày càng bộc lộ những hạn chế mà bản thân nó không tự khắc phục được:

Dự trữ không tương xứng: Do quy mô thương mại quốc tế ngày càng tăng gắn liền với những dòng vận động tiền tệ lớn, đòi hỏi các NHTW phải mua và bán khối lượng lớn đồng USD để duy trì tỷ giá hối đoái đã thoả thuận. Về dài hạn, một số ngân hàng nhận thấy dự trữ USD và vàng của mình không đủ đáp ứng nhu cầu trên.

Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự thay đổi về mức giá cả tương đối giữa các đổng tiền làm cho một số đồng tiền được đánh giá quá cao hoặc quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lượng tiền lớn khiến cho NHTW phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn để cố gắng duy trì tỷ giá đã định theo thoả ước cho đến khi nó được thay đổi.

Sức ép từ tương quan thực tế giữa các đồng tiền: Sự tăng trưởng khác nhau về xuất nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất chênh lệch giữa các nước và hàng loạt các nhân tố tác động khác đã làm cho có sự thay đổi tương đối về giá trị tương đối giữa các đồng tiền xét về dài hạn. Vì vậy, một số nước đã xin thay đổi lại tỷ giá, gây sức ép cho tỷ giá cố định.

Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, khoa học kỹ thuật phát triển làm cho các nước phục hồi kinh tế, thế giới chia làm 3 cực: Mỹ, Nhật và Tây Âu. Do đó, các nước đã xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và Mỹ trở thành nước nhập siêu. Về phía mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn như trước làm cho cán cân thương mại Mỹ thường xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày càng giảm, nợ nước ngoài tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Thêm vào đó Mỹ sa lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và một số nước khác khiến chính phủ Mỹ chi tiêu ngày càng nhiều tiền. Các nước khủng hoảng lòng tin với USD, đã chuyển đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự trữ vàng của Mỹ giảm sút nhanh chóng. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần tuyên bố phá giá: Lần 1[tháng8/1971] 1USD = 0,81gram vàng ròng và 42 USD = 1ounce vàng, lần 2 [tháng 3/1973] 1USD = 0,7369 gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị phá giá [-10%] thì chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ.

Đây là chế độ tỷ giá hối đoái mà ở đó Nhà nước, cụ thể là NHTW tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá giữa đồng tiền của quốc gia mình với một hoặc một số đồng tiền nào đó ở một mức độ nhất định. ở đây, NHTW đóng vai trò điều tiết lượng dư cầu hoặc dư cung về ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra hoặc mua vào số dư đó.

Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lại một môi trường ổn định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh.

Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô.

Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá.

Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên ngoài hoặc từ thi trường hàng hoá trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá.

Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng.

Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát" không mong muốn.

Video liên quan

Chủ Đề