Thực nghiệm là phương pháp thích hợp nhất để kiểm nghiệm giả thuyết về mối quan hệ nhân quả

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

Full PDF PackageDownload Full PDF Package

This Paper

A short summary of this paper

37 Full PDFs related to this paper

Download

PDF Pack

Việc thiết kế nghiên cứu thực nghiệm nhằm mục đích đảm bảo dữ liệu hợp lệ liên quan đến giả thuyết được kiểm tra một cách kinh tế (công suất thống kê tối đa với chi phí và sự bất tiện tối thiểu) nhất có thể.

Điều tra dân số cho chúng ta biết về các đặc điểm quan sát được và mối liên hệ giữa các đặc điểm này trong quần thể. Nhưng giá trị của sự liên kết này vẫn là mô tả mà không có ý nghĩa nhân quả, ví dụ: biến Y có thể được tạo ra để có một giá trị cụ thể bằng cách thay đổi biến X. Một thử nghiệm có thể cho chúng ta biết liệu chúng ta có thể tạo ra các liên kết nhân quả như vậy hay không.

Bản chất của thử nghiệm so sánh nằm ở chỗ đảm bảo rằng:

Sự khác biệt duy nhất giữa hai nhóm là can thiệp;

Có đủ số lượng đơn vị từ các nhóm so sánh;

Các phương pháp xác suất thích hợp được sử dụng để xác định mối quan hệ của can thiệp với kết quả.

Việc lựa chọn cẩn thận biến kết quả, chọn mẫu, quy trình phân bổ và các quy trình phân tích thống kê là điều cần thiết cho sự thành công của thử nghiệm. Thường cần phải đi chệch khỏi điều kiện thử nghiệm lý tưởng này, nhưng bằng cách lựa chọn cẩn thận thiết kế, thường có thể điều chỉnh, thống kê, bất kỳ sự khác biệt cơ bản hoặc bất thường khác trong quá trình chọn mẫu khi kiểm tra các giả thuyết.

Mặc dù thử nghiệm là một bước quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả, nhưng cần phải nhớ rằng nó thường không khả thi cũng như không có đạo đức khi đưa con người vào các yếu tố nguy cơ trong các nghiên cứu căn nguyên.

Do đó, nghiên cứu thực nghiệm thường chỉ giới hạn trong việc thử nghiệm lâm sàng các loại thuốc mới hoặc liệu pháp điều trị có thể có lợi hơn và do đó có thể biện minh về mặt đạo đức. Tương tự như vậy, các can thiệp cộng đồng, chẳng hạn như fluor hóa nguồn cấp nước, giới thiệu các chương trình giáo dục hướng dẫn các bà mẹ về vấn đề dinh dưỡng, v.v. là những thử nghiệm khả thi.

Ví dụ cụ thể:

Dân số tham chiếu (còn được gọi là dân số mục tiêu) là dân số áp dụng các khái quát hóa kết quả của thử nghiệm. Trong thử nghiệm lâm sàng của AZT cho bệnh nhân AIDS, tất cả những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh AIDS sẽ được đưa vào nhóm này.

Trong một thử nghiệm cộng đồng về tác dụng của giáo dục dinh dưỡng ở bà mẹ đối với việc cải thiện sức khỏe của trẻ em, tất cả các gia đình có trẻ em sẽ tạo thành dân số tham chiếu. Bước đầu tiên trong bất kỳ thiết kế thử nghiệm nào sẽ là xác định dân số tham chiếu thích hợp.

Khi đã xác định được tham chiếu tổng thể, phải xác định xem toàn bộ quần thể này có sẵn để nghiên cứu hay không, hay chỉ có một mẫu. Nếu là một mẫu, lựa chọn tốt nhất cho quần thể nghiên cứu này là lấy một mẫu ngẫu nhiên đơn giản (đặc biệt nếu nghiên cứu có quy mô hợp lý), để không có sự sai lệch trong việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thực tế, nhóm nghiên cứu được chọn thuận tiện. Ví dụ, trong trường hợp thử nghiệm lâm sàng, nghiên cứu thường bị giới hạn ở một số địa điểm và bệnh nhân đến các địa điểm này, tự nguyện hoặc thông qua một số hệ thống giới thiệu. Rõ ràng, sự thành công của thử nghiệm và liệu kết quả của thử nghiệm có thể được tổng quát hóa cho dân số mục tiêu hay không, sẽ phụ thuộc vào mức độ đại diện của mẫu này. Ví dụ, nếu một thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân tim được giới hạn trong một khoa, một bệnh viện, thì kết quả sẽ không thể tổng quát được cho tất cả bệnh nhân. Sự sai lệch trong lựa chọn thường là một vấn đề rất nghiêm trọng khi lựa chọn một quần thể nghiên cứu.

Trong hầu hết các thử nghiệm, nghiên cứu có thể được giới hạn trong một nhóm nhỏ của quần thể nghiên cứu vì nhiều lý do khác nhau. Đây là (và phải được) liệt kê trước khi bắt đầu thử nghiệm như là tiêu chí bao gồm / loại trừ. Các tiêu chí bao gồm xác định nhóm mục tiêu một cách nhất quán và đáng tin cậy. Ví dụ, nếu các thử nghiệm được thực hiện trên bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, người ta phải xác định nhồi máu cơ tim theo cách có thể chấp nhận được đối với người nhận thông tin từ nghiên cứu (thường là các bác sĩ khác hoặc điều dưỡng, nhà quản lý, v.v.) và nó phải được xác định như vậy trong các thiết lập khác nhau.

Các định nghĩa phải chính xác và có thể lặp lại. Mặt khác, tiêu chí loại trừ liệt kê các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu có thể khiến họ không đủ điều kiện tham gia nghiên cứu. Chúng được chọn để giảm thiểu các nguy cơ tiềm ẩn (bệnh nhân cao tuổi và phụ nữ có thai thường bị loại khỏi các thử nghiệm lâm sàng), và chọn các bệnh nhân nghiên cứu tương đối đồng nhất để giảm cỡ mẫu cần thiết. Rõ ràng, điều này sẽ ‘thiên vị’ nhóm bệnh nhân nghiên cứu được thử nghiệm từ nhóm mục tiêu hoặc nhóm nghiên cứu. Phạm vi loại trừ do các tiêu chí này có thể làm cho nghiên cứu không hợp lệ.

Sau khi xác định được nhóm bệnh nhân nghiên cứu tiềm năng, điều cần thiết là phải nhận được ‘sự đồng ý có hiểu biết’ từ những bệnh nhân tham gia trước khi họ bị thử nghiệm. Việc tiến hành thử nghiệm trên người mà không có sự đồng ý của bệnh nhân là trái đạo đức (hoặc sự đồng ý của cá nhân hoặc, nếu không đủ năng lực hoặc không thể đưa ra sự đồng ý hợp pháp, hãy cần đồng ý bởi người thay thế được ủy quyền). Có một số công ước quốc tế (ví dụ: tuyên bố Helsinki) về thử nghiệm trên người và những công ước này cần được tham khảo. Trong một số trường hợp, thông tin theo quốc gia cụ thể và biểu mẫu đồng ý có thể được yêu cầu để có được sự đồng ý thích hợp. Đối tượng không muốn hoặc không thể đồng ý nên được loại bỏ khỏi danh sách những người tham gia.

Các đối tượng còn lại sau khi loại trừ trước đó tạo thành những bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Đây là nhóm sẽ là đối tượng của thử nghiệm. Các đối tượng trong nhóm này sau đó sẽ được phân bổ ngẫu nhiên vào các yếu tố can thiệp khác nhau và nhóm đối chứng.

Việc phân bổ ngẫu nhiên có thể được thực hiện bằng cách sử dụng cách tiếp cận mẫu ngẫu nhiên đơn giản, hoặc có thể được phân tầng theo các yếu tố gây nhiễu khác nhau.

Sau khi các đối tượng được phân bổ cho các nhóm thử nghiệm và đối chứng, chúng sẽ được theo dõi trong một khoảng thời gian xác định trong các điều kiện nghiêm ngặt và kết quả của thử nghiệm được ghi chép cẩn thận.

Kết quả có thể là một sự kiện phân đôi chẳng hạn như chữa khỏi bệnh, giảm đau, v.v., hoặc nó có thể được đo lường như một biến số liên tục, chẳng hạn như giảm huyết áp hoặc các khoảng thời gian tái phát. Sau đó, các phép đo kết quả được so sánh giữa các nhóm bằng cách sử dụng các phương pháp thống kê thích hợp.

Cần lưu ý rằng, mặc dù các đối tượng đã được phân bổ ngẫu nhiên cho các nhóm thực nghiệm và đối chứng, không có gì đảm bảo rằng việc phân bổ sẽ không có sai lệch. Vẫn có thể có sự khác biệt đáng chú ý giữa hai nhóm đối với một hoặc nhiều biến gây nhiễu tiềm ẩn. Do đó, sự thành công của phân bổ ngẫu nhiên phải được xác minh bằng cách so sánh phân phối của tất cả các biến gây nhiễu khi bắt đầu thử nghiệm (trước khi phân bổ điều trị). Nếu có bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào, cần thực hiện các điều chỉnh thích hợp khi hoàn thành việc so sánh thống kê các thước đo kết quả.

Phần lớn các quyết định của con người được thực hiện dựa trên các bằng chứng khác nhau, nghĩa là có thể đo lường, chứng minh hợp lệ hoặc dự đoán được. Khi chọn lựa giữa các lựa chọn khác nhau, mỗi người đều có xu hướng thiên về những lựa chọn được chứng minh là có hiệu quả. Đây là cách tiếp cận tương tự được áp dụng trong nghiên cứu thực nghiệm.

1-Nghiên cứu thực nghiệm là gì?

Nghiên cứu thực nghiệm (empirical research) là một loại phương pháp nghiên cứu sử dụng bằng chứng có thể kiểm chứng để đi đến kết quả nghiên cứu. Nói cách khác, loại nghiên cứu này chỉ dựa vào bằng chứng thu được thông qua các phương pháp thu thập dữ liệu khoa học hoặc quan sát.

Thực nghiệm là phương pháp thích hợp nhất để kiểm nghiệm giả thuyết về mối quan hệ nhân quả

Nghiên cứu thực nghiệm có thể được thực hiện bằng phương pháp quan sát, dữ liệu được thu thập có thể là dữ liệu định tính hoặc định lượng. Nghiên cứu thực nghiệm là nghiên cứu khoa học để đo lường xác suất thực nghiệm của nghiên cứu, không giống như nghiên cứu lý thuyết phụ thuộc vào các quan niệm định sẵn.

Trong nghiên cứu thực nghiệm, nhà nghiên cứu đi đến kết quả bằng cách kiểm tra bằng chứng thực nghiệm của mình bằng phương pháp quan sát. Nghiên cứu thực nghiệm được tách biệt với các nghiên cứu khác bởi tính năng và phương pháp của nó.

2-Lợi ích của nghiên cứu thực nghiệm

Thực nghiệm là phương pháp thích hợp nhất để kiểm nghiệm giả thuyết về mối quan hệ nhân quả

Nghiên cứu thực nghiệm là một trong những phương pháp điều tra hữu ích nhất. Nó có thể được sử dụng để xác nhận nhiều giả thuyết trong các lĩnh vực khác nhau phục vụ cho việc kinh doanh của doanh nghiệp.

  • Trong pháp luật: Trong pháp luật, nghiên cứu thực nghiệm được sử dụng để nghiên cứu các thể chế, quy tắc, thủ tục và nhân sự của pháp luật, nhằm tìm hiểu cách họ vận hành và những tác động của chúng. Nó sử dụng các phương pháp trực tiếp hơn là các nguồn thứ cấp và điều này giúp bạn đi đến kết luận hợp lệ hơn.
  • Trong y học: Trong y học, nghiên cứu thực nghiệm được sử dụng để kiểm tra và xác nhận nhiều giả thuyết và tăng kiến ​​thức của con người.
  • Trong nhân học: Trong nhân học, nghiên cứu thực nghiệm được sử dụng như một phương pháp nghiên cứu có hệ thống dựa trên bằng chứng về các mô hình hành vi và văn hóa của con người. Điều này giúp xác nhận và nâng cao kiến ​​thức của con người. Từ đây các doanh nghiệp có thể sử dụng những thông tin này để cải tiến sản phẩm hoặc thực hiện các chiến dịch marketing phù hợp với người tiêu dùng.

3-Đặc điểm của nghiên cứu thực nghiệm

Thực nghiệm là phương pháp thích hợp nhất để kiểm nghiệm giả thuyết về mối quan hệ nhân quả

Câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu thực nghiệm bao gồm một loạt câu hỏi hướng dẫn điều tra. Trong nhiều trường hợp, những câu hỏi nghiên cứu này có thể tạo thành giả thuyết nghiên cứu có thể kiểm định bởi các phương pháp định tính và định lượng dựa trên bản chất của nghiên cứu.

Trong một nghiên cứu thực nghiệm, các câu hỏi nghiên cứu được xây dựng xung quanh vấn đề cốt lõi của nghiên cứu, đó là vấn đề trọng tâm mà nghiên cứu tìm cách giải quyết. Họ cũng xác định quá trình nghiên cứu bằng cách nhấn mạnh mục đích và mục tiêu cụ thể của cuộc điều tra có hệ thống.

Mẫu

Mẫu dữ liệu dùng để nghiên cứu được phân định rõ ràng và được đặt trong bối cảnh nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu

Một nghiên cứu thực nghiệm cũng nêu rõ các phương pháp được áp dụng trong cuộc điều tra có hệ thống. Ở đây, quy trình nghiên cứu được mô tả chi tiết bao gồm các tiêu chí lựa chọn cho mẫu dữ liệu, phương pháp nghiên cứu định tính hoặc định lượng cộng với các công cụ kiểm tra.

4-Quy trình nghiên cứu thực nghiệm

Quy trình nghiên cứu thực nghiệm gồm có 5 giai đoạn liên kết chặt chẽ với nhau, có tầm quan trọng như nhau. Quá trình này phác thảo rõ ràng các giai đoạn khác nhau liên quan đến việc tạo ra giả thuyết nghiên cứu và kiểm tra các giả thuyết này một cách có hệ thống bằng cách sử dụng dữ liệu thực nghiệm.

Thực nghiệm là phương pháp thích hợp nhất để kiểm nghiệm giả thuyết về mối quan hệ nhân quả

Quan sát

Đây là quá trình thu thập dữ liệu thực nghiệm cho nghiên cứu. Ở giai đoạn này, nhà nghiên cứu tập hợp dữ liệu thực nghiệm có liên quan bằng các phương pháp quan sát định tính hoặc định lượng. Điều này được thực hiện trước để có thể đưa ra các giả thuyết nghiên cứu.

Cảm ứng

Ở giai đoạn này, nhà nghiên cứu sử dụng lý luận quy nạp để đi đến kết luận nghiên cứu có thể xảy ra dựa trên dữ liệu thu được từ quan sát của mình. Nhà nghiên cứu tạo ra một giả định chung cố gắng giải thích dữ liệu thực nghiệm và họ tiếp tục quan sát dữ liệu thực nghiệm phù hợp với giả định này.

Khấu trừ

Đây là giai đoạn suy luận. Đây là nơi nhà nghiên cứu tạo ra các giả thuyết bằng cách áp dụng logic và tính hợp lý vào quan sát của mình.

Kiểm tra

Ở đây, nhà nghiên cứu đặt các giả thuyết để kiểm tra bằng các phương pháp nghiên cứu định tính hoặc định lượng. Trong giai đoạn thử nghiệm, nhà nghiên cứu kết hợp các công cụ điều tra có hệ thống có liên quan với các phương pháp thực nghiệm để đi đến kết quả khách quan hỗ trợ hoặc phủ nhận các giả thuyết nghiên cứu.

Đánh giá

Đánh giá là giai đoạn cuối cùng trong một nghiên cứu thực nghiệm. Ở đây, nghiên cứu phác thảo dữ liệu thực nghiệm, kết quả nghiên cứu và các lập luận hỗ trợ cộng với bất kỳ thách thức nào gặp phải trong quá trình nghiên cứu.

5-Thu thập dữ liệu cho nghiên cứu thực nghiệm

Dữ liệu cho nghiên cứu thực nghiệm có thể được thu thập bằng các phương pháp thu thập dữ liệu định tính hoặc định lượng. Dưới đây là một số phương pháp thu thập dữ liệu có thể sử dụng cho nghiên cứu thực nghiệm.

Thực nghiệm là phương pháp thích hợp nhất để kiểm nghiệm giả thuyết về mối quan hệ nhân quả

Khảo sát

Một cuộc khảo sát là một phương pháp thu thập dữ liệu thường được các nhà nghiên cứu sử dụng để thu thập các tập hợp dữ liệu lớn từ một số người trả lời cụ thể liên quan đến một đối tượng nghiên cứu. Phương pháp thu thập dữ liệu này thường được sử dụng để thu thập dữ liệu định lượng , mặc dù nó cũng có thể được triển khai trong quá trình nghiên cứu định lượng.

Một khảo sát chứa một tập hợp các câu hỏi có thể bao gồm từ câu hỏi đóng đến câu hỏi mở cùng với các loại câu hỏi khác xoay quanh đối tượng nghiên cứu. Một cuộc khảo sát có thể được thực hiện thông qua phát bảng câu hỏi hoặc thông qua các biểu mẫu online như Google Form, Survey Monkey,…

Thí nghiệm

Dữ liệu cũng có thể thu thập bằng cách dùng thí nghiệm. Thí nghiệm là một dạng mô phỏng có thể được kiểm soát, trong đó một hoặc nhiều biến nghiên cứu có thể được thao tác bằng cách sử dụng một bộ các quy tắc để xác nhận hoặc bác bỏ giả thuyết nghiên cứu.

Thí nghiệm thường được sử dụng để đo lường mối quan hệ nhân quả. Đây là một phương pháp thu thập dữ liệu không thể thiếu trong một nghiên cứu thực nghiệm vì nó liên quan đến việc kiểm tra các giả định được tính toán để đi đến kết quả nghiên cứu và dữ liệu hợp lệ nhất.

Nghiên cứu các trường hợp điển hình

Đây là một phương pháp thu thập dữ liệu phổ biến trong một nghiên cứu thực nghiệm. Phương pháp này được sử dụng để khám phá ra các thông tin chuyên sâu về đối tượng nghiên cứu, dữ liệu thu được có thể đóng vai trò là dữ liệu thực nghiệm.

Phương pháp này liên quan trực tiếp đến quá trình chọn mẫu nghiên cứu để có thể xác định mẫu có liên quan đến đối tượng nghiên cứu.

Quan sát

Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập dữ liệu định tính, đòi hỏi nhà nghiên cứu phải nghiên cứu hành vi của các biến nghiên cứu trong môi trường tự nhiên của họ để thu thập thông tin liên quan có thể dùng làm dữ liệu thực nghiệm.

Muốn thực hiện nghiên cứu thực nghiệm?

Doanh nghiệp của bạn muốn thực hiện nghiên cứu thực nghiệm để kiểm tra xem sản phẩm của mình đã đúng insight khách hàng hay chưa? Chiến dịch truyền thông đã truyền tải đúng thông điệp chưa? Hay thử nghiệm sản phẩm mới có đáp ứng được kỳ vọng của khách hàng? …

DTM Consulting có đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm trong nghiên cứu thị trường có thể giúp doanh nghiệp bạn thực hiện những nghiên cứu đem lại nhiều thông tin hữu ích, giúp cho việc ra các quyết định marketing hợp lý và đúng đắn.

ặc biệt, trong năm 2020, nhằm hỗ trợ các SMEs và Startups, DTM Consulting cung cấp dịch vụ tư vấn MIỄN PHÍ về chiến lược (chiến lược marketing, chiến lược sản phẩm, thương hiệu,…) và định hướng hoạt động, chiến thuật marketing của doanh nghiệp dựa trên các kết quả dữ liệu thu thập đươc  nhằm giúp doanh nghiệp sử dụng các dữ liệu sau nghiên cứu một cách hiệu quả.

LIÊN HỆ để nhận phân tích và đánh giá từ chuyên gia.

Nguồn: Formpl