Thiền chỉ và thiền quán là gì

aratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này, hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát .

Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định mà tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí, có mục đích khác với định nhà Phật) và hành thiền tuệ lại có kết quả của định, rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.

Một vài phái thiền chủ trương loại hẳn tứ thiền bát định ra khỏi con đường tuệ giác. Điều này có thể đúng với một số người, nhưng đó không phải là định luật tất yếu và phổ quát nên không nhất thiết phù hợp với mọi căn cơ trình độ của hành giả trên đường giác ngộ.

Chủ trương duy tu thiền tuệ có thể rút ngắn hành trình tu tập với những người có sẵn túc duyên, nhưng với người chưa đủ những yếu tố Ba-la-mật khác, chưa cân bằng với các căn tín, tấn, niệm, định, chưa có sự hỗ trơ thích đáng của bảy giác chi v.v… thì đến một mức độ nhất định nào đó, hành giả sẽ bị đình trệ không thể nào tiến triển được nữa. Từ đó sanh ra chán nản, mất tự tin hoặc sinh tâm nghi ngờ giáo pháp, hoá ra không bằng một người do tu thiền một cách đúng hướng mà phát tuệ một cách tự nhiên.

Chính vì vậy mà dù rằng vị càn tuệ không cần tới bát định, cũng có thể đạt được mục đích tối hậu. Đức Phật đã xác nhận vị câu phần giải thoát vẫn ưu thắng hơn về nhiều mặt trên con đường tự giác, giác tha.

Để đi sâu vào những trình tự tu tập định tuệ, xin mời quý vị nghiên cứu kỹ lưỡng những điều đã được trình bày một cách mạch lạc và đầy đủ trong tập sách “Con đường Thiền chỉ và Thiền Quán” mà Đại Đức Pháp Thông đã dịch rất cẩn thận và trung thực này.

Tổ Đình Bửu Long ngày 04/03/2004

Tỳ Khưu Viên Minh


LỜI GIỚI THIỆU (2)

“Chỉ Quán Đạo” hay “Con đường Thiền Chỉ và Thiền Quán” là tập sách Thiền được biên soạn kỹ lưỡng, dịch thuật cẩn thận, rất xứng với cái tên của tập sách nầy .

Tập sách thiền “Chỉ Quán Đạo” như là một cẩm nang (khi hành giả bị bế tắc, thì dở sách nầy sẽ tìm thấy lối thoát…), như một la bàn (cứ nhìn vào sách thấy rõ vật thực của triền cái thì tránh, vật thực của thất giác chi thì hành là đúng), như đôi tay để làm việc.

Nếu gặp được tập sách thiền “Chỉ Quán Đạo” là như gặp một minh sư điểm đạo, bởi tập “Chỉ Quán Đạo” nầy y cứ theo Phật ngôn rất chuẩn xác, và cũng nương theo chú giải nên rất dể hiểu.

Những công thức thiền quán chính Đức Phật dạy, có thứ lớp tuần tự của mỗi nhân quả nầy đưa đến nhân quả khác, như cách liên châu luận: Nhờ thân cận bậc chân nhân nên được nghe diệu pháp; nhờ được nghe diệu pháp nên có đức tin; nhờ có đức tin nên có như lý tác ý; nhờ có như lý tác ý nên có chánh niệm tỉnh giác; nhờ có chánh niệm tỉnh giác nên có sự thu thúc các căn; nhờ có thu thúc các căn nên ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được trong sạch; nhờ tam nghiệp thanh tịnh nên thắng tri năm triền cái; nhờ thắng tri năm triền cái nên minh sinh khởi; do minh sanh nên vô minh diệt; do vô minh diệt thì hành diệt; do hành diệt thì thức diệt; do thức diệt thì danh sắc diệt; do danh sắc diệt thì lục nhập diệt; do lục nhập diệt thì xúc diệt; do xúc diệt thì thọ diệt; do thọ diệt thì ái diệt; do ái diệt thì thủ diệt; do thủ diệt thì hữu diệt; do hữu diệt thì sanh diệt; do sanh diệt thì già, đau chết (của sắc), ưu, bi, khổ, não, sầu, ai (của danh) cũng diệt. Như vậy là chấm dứt toàn bộ khổ uẩn.

Nhưng khởi đầu của công thức thiền quán chính là nương tựa bậc thiện hữu (kalyānimitta) nên Đức Phật tuyên bố: “Toàn bộ đời sống phạm hạnh này là thiện hữu, thiện bạn lữ, thiện giao du.” Thiện hữu, thiện bạn lữ, thiện giao du ở đây chính là vị đạo sư (vị thầy dạy đạo) mà cuốn sách thiền “Chỉ Quán Đạo” này là vị thiền sư (Sư là thư năng ngôn, thư là sư bất năng ngôn) của chúng ta vậy .

Tập sách thiền “Chỉ Quán Đạo” đối với tôi là tập thứ hai (tập thứ nhất là “Đoạn trừ lậu hoặc”) trong số dịch phẩm của Đại Đức Pháp Thông, mà tôi rất vui mừng ưa thích, nên trân trọng giới thiệu đến chư Tăng, Phật tử trong và ngoài nước, nên thỉnh làm “cuốn sách đầu giường” cho việc tu tập thiền Chỉ Quán.

Bửu Đức Tự , ngày 14/03/2004

Tỳ khưu Giác Chánh


LỜI NGƯỜI DỊCH

Về cơ bản, lời dạy của Đức Phật là con đường đưa đến sự diệt khổ. Trọng tâm của con đường này là việc hành thiền. Như vậy, thiền có thể được xem như trái tim của Phật Giáo ứng dụng, các giai đoạn chuẩn bị của đạo lộ đều dẫn đến đó, và cũng từ đó các giai đoạn chứng đắc cao hơn khác được thành tựu. Một trong những phương diện quan trọng nhất của thiền Phật giáo mà chúng ta bắt gặp rất thường xuyên trong kinh điển Nguyên Thuỷ là hệ thống các thiền chứng, gọi theo Pāli là Jhānas. Các thiền chứng hay Jhāna đã từng là phương tiện góp phần làm nên sự giác ngộ của Đức Phật, và sau đó nhập vào trình tự tu tập được Ngài thiết lập cho hành đệ tử. Chúng xuất hiện ở giai đoạn đầu của đạo lộ chuẩn bị đến các tuệ giác cao hơn, rồi một lần nữa trong sự kết hợp trực tiếp với tuệ giải thoát, và ngay cả ở giai đoạn cuối, các thiền chứng vẫn được xem như một thành tựu tinh thần của con người đã giải thoát hoàn toàn. Do đó một hiểu biết về thiền hết sức là cần thiết.

Thực ra thiền là một lĩnh vực vô cùng thâm sâu, huyền diệu và bất khả tư nghì. Ngoại trừ Đức Phật với trí lực “Tri chư thiền giải thoát tam muội” hay “như thật trí của Đức Như Lai hiểu rõ sự ô nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất ly của thiền, giải thoát, định và nhập định” ra, không ai có đủ thẩm quyền để nói về thiền một cách thấu đáo và tường tận được. Chính vì lý do đó mà “The Path of Serenity and Insight” (Con đường Thiền Chỉ và Thiền Quán) có mặt như một sự tổng hợp toàn diện và đầy đủ nhất các nguồn Kinh điển và Chú giải liên quan đến Thiền và diển đạt lại bằng phương pháp luận thích hợp nhất với thời hiện đại. Hoà thượng Thiền sư Henepola Guṇaratana sanh năm 1927 tại Tích Lan, xuất gia năm 13 tuổi, hiện đang hướng dẫn những khoá thiền lớn tại Hoa Kỳ và Canada. Cuốn sách đã đem lại ánh sáng hiểu biết cho rất nhiều người, nhất là những hành giả đang lúng túng giữa thiền chỉ và thiền quán hay những người thường xem nhẹ giá trị của định trong thiền minh sát.