Thị trường nhập khẩu của Nhật Bản

Nhật Bản là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh nhất thế giới và cũng là nước nhập khẩu hàng hóa lớn trên thế giới. Năm 2013, Nhật Bản đã chi hơn 833,1 tỷ USD để nhập khẩu các sản phẩm hàng hóa trên thế giới, tăng 50,9% so với năm 2009 nhưng so với năm 2012 lại giảm 5,9%.

Thị trường nhập khẩu của Nhật Bản

Nhật Bản phát triển đa dạng các ngành nghề và với mức sống cao, do đó nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm cũng đa dạng phong phú với các chủng loại hàng hóa. Ngoài nhiên liệu khoáng sản thì thiết bị điện, máy móc, thực phẩm, hóa chất, hàng thủy sản, ngũ cốc, gỗ và các sản phẩm nguyên liệu …là các mặt hàng nhập khẩu chính của Nhật Bản

Mặt hàng

HS

Dược phẩm: thuốc các loại và các dung dịch dùng cho chữa và phòng bệnh

300490; 300410, 300420; 300432; 300440; 300450; 300210;

Điện thoại và các bộ phận, linh kiện điện thoại, máy điện và các thiết bị

851712; 851770, 850760; 854290, 854239; 854232

Máy xử lý dữ liệu tự động loại xách tay

847130

Phương tiện vận tải các loại

870323

Ngũ cốc

100590

Thủy sản

030611; 030612, 030612; 030613; 030617

Gỗ và sản phẩm gỗ

440122

Nhựa và các sản phẩm

392690

Các thị trường nhập khẩu chủ yếu của Nhật Bản gồm: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Australia, Ả rập Xê út, Malaysia, Đức, Đài Loan, Indonesia… Trong năm 2013, đứng đầu về kim ngạch là từ thị trường Trung Quốc, chiếm 21,7% tổng trị giá nhập khẩu, đạt 180,9 tỷ USD; các mặt hàng nhập khẩu chính từ Trung Quốc gồm: thiết bị điện, máy móc, động cơ, dệt may, giày dép, đồ chơi, thiết bị y tế… Đứng thứ 2 là tử Hoa Kỳ với đạt trị giá 71,9 tỷ USD, chiếm 8,6% tổng kim ngạch; các mặt hàng nhập khẩu chính như: máy móc, động cơ, phương tiện đi lại, nội thất, thiết bị điện, nhựa… Australia đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu vào Nhật Bản, đạt trị giá 51,0 tỷ USD, chiếm 6,1%; các mặt hàng chính nhập khẩu từ thị trường này gồm: quặng, dầu, thịt, ngũ cốc, gỗ, hải sản… Tiếp đến là các thị trường khác như Ả rập Xê út chiếm 5,1%; Hàn Quốc chiếm 4,3%... Ba thị trường nhập khẩu lớn nhất của Nhật Bản là Trung Quốc, Hoa Kỳ và Australia chiếm tới 36,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Các thị trường này sẽ tiếp tục duy trì được thị phần tại thị trường Nhật Bản trong thời gian tới, đặc biệt là Trung Quốc và Hoa Kỳ vì đây là các thị trường truyền thống của Nhật Bản với các sản phẩm phong phú đáp ứng được nhu cầu và các điều kiện của quốc gia có nền kinh tế phát triển; ngoài ra các thị trường khác cũng sẽ có nhiều cơ hội tại Nhật Bản nếu đáp ứng được các yêu cấu về chủng loại hàng hóa và chất lượng sản phẩm.

Thị trường nhập khẩu của Nhật Bản
 

Thị trường nhập khẩu của Nhật Bản

Vải thiều Việt Nam được ưa chuộng tại Nhật Bản

Ngoài thông tin nói trên, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản (Bộ Công Thương) cũng cho biết thêm, Nhật Bản là thị trường có nhu cầu nhập khẩu và tiêu thụ lớn các sản phẩm nông thủy sản-thực phẩm nước ngoài. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có thế mạnh về những mặt hàng đó và có khả năng cung ứng tốt cho thị trường này.

Trong bối cảnh xuất nhập khẩu của Việt Nam với thế giới bị ảnh hưởng chung, thị trường Nhật Bản vẫn là điểm sáng khi duy trì được mức tăng trưởng đáng khích lệ. Năm 2021, tổng kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản đạt 42,7 tỷ USD, tăng 7,8% so với năm 2020. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 20,1 tỷ USD, tăng 4,4%; nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản đạt 22,6 tỷ USD, tăng 11,3%.

Nhật Bản là thị trường có nhu cầu nhập khẩu và tiêu thụ lớn đối với các sản phẩm nông thủy sản-thực phẩm nước ngoài, bao gồm cá và sản phẩm chế biến từ cá, tôm, lươn, thịt và những sản phẩm từ thịt, đậu nành, sản phẩm từ ngũ cốc, rau quả tươi và chế biến, cà phê… Việt Nam được đánh giá là quốc gia có thế mạnh về những mặt hàng nói trên và có khả năng cung ứng tốt cho thị trường Nhật Bản.

Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản năm 2021 đạt 1,8 tỷ USD, giảm nhẹ ở mức 0,5% so với năm 2020. Mặc dù mặt hàng chủ lực trong nhóm hàng này là hàng thủy sản có mức giảm 7,4%, các mặt hàng còn lại ghi nhận mức tăng trưởng rất tốt, như cà phê tăng 25,5%, hàng rau quả tăng 20%, hạt điều tăng 39%, hạt tiêu tăng 56%... Một số mặt hàng trái cây Việt Nam cũng chiếm thị phần lớn và ngày càng phổ biến trên thị trường, như thanh long, xoài, dừa, vải...

Hiện nay, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản đang chú trọng đẩy mạnh công tác kết nối các doanh nghiệp xuất khẩu nông thủy sản-thực phẩm của Việt Nam với các nhà nhập khẩu và chuỗi phân phối lớn của Nhật Bản. Những mặt hàng có chất lượng cao của các doanh nghiệp đạt danh hiệu "Thương hiệu quốc gia" cũng được tăng cường giới thiệu, quảng bá tại các hoạt động xúc tiến thương mại của Thương vụ. 

Thông qua sự kết nối của Thương vụ, một số sản phẩm Việt Nam đã thâm nhập thành công vào chuỗi phân phối tại Nhật Bản, có thể kể đến các sản phẩm nước dừa, sữa dừa... đã được Công ty KOME nhập khẩu và phân phối cho chuỗi các cửa hàng bán đồ Việt tại Tokyo và các tỉnh lân cận; hay như sản phẩm cà phê Việt Nam đã được nhập khẩu và bán tại chuỗi siêu thị OK - chuỗi siêu thị bình dân rất được ưa chuộng tại Tokyo. 

Cùng với sự đổi mới trong thị hiếu tiêu dùng, người dân Nhật Bản ngày càng quan tâm đến các sản phẩm chất lượng cao được nhập khẩu từ nước ngoài. Các sản phẩm nông thủy sản-thực phẩm của Việt Nam đang ngày càng xuất hiện phổ biến với đa dạng chủng loại trên các kệ hàng của các chuỗi siêu thị lớn tại Nhật Bản, như AEON, Donkihote, Itoyokado…

Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản khuyến cáo, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần lưu ý một số đặc điểm đặc thù của thị trường để việc xuất khẩu và bán hàng có hiệu quả và mang tính bền vững. Cần tận dụng hiệu quả các ưu đãi về thuế quan từ các hiệp định thương mại tự do (VJEPA, AJCEP, CPTPP, RCEP...). Người tiêu dùng Nhật Bản có sự nhạy cảm cao với sự thay đổi liên tục giá bán của một sản phẩm nào đó, do vậy các nhà nhập khẩu Nhật Bản luôn đề cao sự ổn định của giá cả và lượng cung ứng từ phía đối tác Việt Nam.

Các sản phẩm hàng Việt trước tiên cần luôn đảm bảo chất lượng tốt để đáp ứng các quy định khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản, đồng thời cũng cần có sự đa dạng về khẩu vị cho phù hợp với người Nhật, sự cải tiến trong thiết kế mẫu mã bao bì cho bắt mắt và thu hút người tiêu dùng (ví dụ như có nhãn mác ghi bằng tiếng Nhật giới thiệu chi tiết thông tin sản phẩm để tạo niềm tin của người mua hàng). Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền giới thiệu về thương hiệu, sản phẩm cũng cần được chú trọng nhiều hơn nữa. 

Đỗ Hương


Với dân số gần 126 triệu người và thu nhập bình quân đầu người khoảng 43.000 USD/người, Nhật Bản là thị trường có sức tiêu thụ lớn.

Tuy vậy, theo số liệu của Cơ quan Hải quan Nhật Bản, nhập khẩu từ Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản từ thế giới. Điều này cho thấy hàng Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa và tiềm năng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.

(Hình ảnh minh họa)

Nhật Bản có nhu cầu lớn đối với hàng nông lâm thủy sản, dệt may, da giày… của Việt Nam. Năm 2020 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 19,3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu các mặt hàng chủ lực là: hàng dệt may 3,5 tỷ USD, phương tiện vận tải và phụ tùng 2,4 tỷ USD, hàng máy móc thiết bị 2 tỷ USD, thủy sản 1,4 tỷ USD, gỗ và sản phẩm gỗ 1,3 tỷ USD…, ngoài ra xuất khẩu hàng rau quả 128 triệu USD, cà phê 181 triệu USD, sắn và sản phẩm từ sắn 1,4 triệu USD…

Trong những năm gần đây đang diễn ra làn sóng các doanh nghiệp Nhật Bản chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam. Các doanh nghiệp Nhật tăng cường xây dựng nhà máy, sản xuất sản phẩm ở Việt Nam rồi xuất khẩu ngược lại về Nhật Bản. Bên cạnh đó số lượng người Việt Nam sinh sống tại Nhật Bản cũng tăng nhanh trong một thập kỷ qua, khiến cho nhu cầu tiêu thụ hàng nông thủy sản – thực phẩm Việt Nam ngày càng gia tăng.

Để xuất khẩu thành công sang Nhật Bản doanh nghiệp cần hiểu rõ về thị trường. Thị trường Nhật Bản có một số đặc điểm nổi bật như sau:

Tiêu chuẩn kỹ thuật mang tính đặc thù

Mặc dù theo đuổi chính sách thương mại tự do (cắt giảm thuế quan theo tinh thần của WTO), Nhật Bản vẫn áp dụng các cơ chế phi thuế quan nhằm bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Trong các rào cản như vậy, Chính phủ Nhật Bản thường lồng những lý do chính đáng như bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương mại không lành mạnh (chống bán phá giá, chống trợ cấp), bảo vệ an toàn sức khỏe con người, an toàn môi trường… Nhìn chung các hàng hóa thông thường được tự do nhập khẩu vào Nhật Bản, tuy nhiên Chính phủ Nhật áp dụng các biện pháp cấm nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu… đối với các hàng hóa ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, an ninh lương thực, hàng hóa trái thuần phong mỹ tục hay vi phạm quy định bằng sáng chế, v.v…

Hàng hóa nước ngoài muốn được nhập khẩu vào Nhật bắt buộc phải có giấy chứng nhận việc đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng đã đặt ra. Đối với hàng nông lâm thủy sản cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật, và đòi hỏi phải được sản xuất, nuôi trồng theo các tiêu chuẩn GAP, HACCP hay JAS – Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật; trong khi hàng công nghiệp cần phải đáp ứng điều kiện về quy cách sản phẩm, quy chuẩn kỹ thuật, quy định ghi nhãn hay các quy định ghi trong JIS – Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản… Các lô hàng vi phạm quy định về chất lượng sẽ bị tiêu hủy hoặc trả lại, đồng thời hải quan Nhật Bản sẽ tăng cường tần suất và mức độ kiểm tra hàng hóa trong những lần sau, có thể gây ra nhiều phiền phức và làm tăng chi phí cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Thực tế cho thấy nếu chất lượng của một sản phẩm đã được thị trường Nhật Bản chấp thuận thì sản phẩm đó hoàn toàn có thể cạnh tranh tốt được ở các thị trường khác.

Hệ thống kênh phân phối phức tạp

Hệ thống phân phối hàng hóa tại Nhật Bản phức tạp với truyền thống lâu đời gồm nhiều cấp khác nhau, với các chức năng riêng biệt. Ví dụ có những chuỗi siêu thị của Nhật Bản không nhập khẩu hàng trực tiếp từ nhà cung ứng nước ngoài, mà chỉ mua hàng từ các nhà bán buôn trung gian hoặc từ các đầu mối nhập khẩu lớn của Nhật Bản. Mặc dù việc này có thể gia tăng chi phí của các siêu thị (so với việc mua hàng trực tiếp từ nhà cung ứng nước ngoài) nhưng đây là một đặc tính lâu đời khó có thể thay đổi trong văn hóa kinh doanh tại Nhật Bản. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nước ngoài muốn xuất khẩu hàng vào thị trường Nhật phải thiết lập được mối quan hệ tốt với các đầu mối nhập khẩu lớn của Nhật Bản. Nhìn chung hiện nay việc tiếp cận hệ thống kênh phân phối hàng hóa trên thị trường Nhật Bản của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu do nhiều khó khăn đặc thù. Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thương mại và các nhà bán buôn Nhật Bản, trong khi việc tiếp cận các kênh khác như hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp còn rất hạn chế, nhất là hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam chưa có hệ thống đại diện hoặc chi nhánh tại thị trường Nhật Bản.

Chi phí xúc tiến thương mại, giao thương, điều tra thị trường… đắt đỏ

- Chi phí ăn, ở: Tokyo nằm trong top các thành phố có chi phí sống đắt đỏ nhất thế giới năm 2020. Giá 1 đêm ở khách sạn business tối thiểu là hơn 1 triệu VND.

- Chi phí đi lại: Phí tàu điện cao (Ví dụ: vé trọn gói đi trong ngày của tàu điện ngầm trong khu vực trung tâm Tokyo là 600 Yên ~ 120.000 VND, của tàu điện thường là 900 yên ~ 180.000 VND, con số cao gấp khoảng 2 - 3 lần so với chi phí đi tàu điện ở Bắc Kinh, phí taxi khoảng 120.000 – 150.000 VND/2km, gấp 2 lần phí taxi ở Hàn Quốc).

- Chi phí vận tải hàng hóa, gửi hàng mẫu tốn kém, đặc biệt chi phí vận tải đường biển tăng cao trong giai đoạn dịch bệnh hiện nay, chi phí đường hàng không tốn kém. Chi phí thuê điều tra hoặc mua dữ liệu thị trường của các công ty Nhật Bản chuyên điều tra thị trường cũng là rất cao.

Văn hóa kinh doanh, thị hiếu tiêu dùng đặc thù

- Thị hiếu tiêu dùng: từ trước đến nay đối với người dân Nhật Bản khi mua hàng thì chất lượng là yếu tố được quan tâm nhất. Các hàng hóa được sản xuất nội địa tại Nhật có chất lượng cao, điều này tạo ra tâm lý tiêu dùng của người Nhật luôn đòi hỏi các sản phẩm phải có chất lượng tốt, trong đó có các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Tiếp đến người Nhật cũng chú trọng đến giá cả, mẫu mã, kích thước, màu sắc, công dụng… của sản phẩm. Ví dụ: nhịp sống nhanh, công việc bận bịu khiến nhiều người ưa chuộng các sản phẩm thực phẩm ăn liền tiết kiệm thời gian; màu sắc quần áo thường chủ đạo là những gam màu trắng, đen, xám…; đồ nội thất trong nhà có kích thước nhỏ để phù hợp với kích thước các căn nhà ở Nhật, bàn ghế gỗ có thể gập và cất gọn lại... Nhìn chung thị hiếu tiêu dùng của người Nhật rất đa dạng, coi trọng chất lượng và tính tiện dụng của sản phẩm nhằm đáp ứng mọi nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày. Các doanh nghiệp nước ngoài muốn có chỗ đứng tại thị trường Nhật cần nghiên cứu tìm hiểu rõ về thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó đa dạng hóa mẫu mã, hình thức sản phẩm cung với việc tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành.

- Về văn hóa kinh doanh của Nhật Bản, khi gặp gỡ đối tác Nhật lần đầu tiên thì doanh nghiệp Việt Nam cần nhớ mang theo danh thiếp, kèm theo catalogue, hồ sơ giới thiệu công ty, hàng mẫu (nếu bằng tiếng Nhật là tốt nhất, hoặc ít nhất phải có tiếng Anh)… để giới thiệu lịch sự về bản thân, về doanh nghiệp và tạo niềm tin cho đối tác. Cần đảm bảo đúng giờ và giữ lời khi đã hứa hẹn một việc gì đó với đối tác. Ngoài ra nhiều nhân viên các công ty Nhật thường không làm việc vào những ngày cuối tuần/ngày nghỉ, và thường liên lạc công việc qua email hoặc điện thoại công ty chứ không phải bằng điện thoại di động.

- Bắt đầu thiết lập một quan hệ hợp tác kinh doanh hoàn toàn mới với doanh nghiệp Nhật Bản không hề đơn giản, nhiều trường hợp phải có sự giới thiệu của bên thứ ba uy tín thì doanh nghiệp Nhật mới tin tưởng để trao đổi. Và khi đã có mối quan hệ hợp tác với đối tác Nhật thì cần chú trọng duy trì mối quan hệ đó một cách lâu dài, bền vững. Ngoài ra trong quá trình đàm phán/trao đổi, đối tác Nhật có thể đưa ra các yêu cầu như thay đổi mẫu mã hoặc kích thước sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người Nhật. Bởi vì hiểu rõ về thị trường nên các đối tác Nhật mới đưa ra yêu cầu thay đổi như vậy và doanh nghiệp Việt Nam nên cố gắng tích cực đáp ứng những yêu cầu đó. Nếu những đòi hỏi phía đối tác đưa ra quá khắt khe, doanh nghiệp Việt Nam có thể trao đổi lại một cách cụ thể với phía đối tác Nhật để tìm ra phương hướng giải quyết phù hợp nhất.

- Tận dụng các cam kết cắt giảm thuế trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam và Nhật Bản cùng là thành viên: Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)...

Nguồn: vietnamexport.com (05/11/2021)