Tại sao phải tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện liên hệ trách nhiệm sinh viên

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công (năm 1945), chính quyền cách mạng mới được thành lập đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đương đầu với nhiều kẻ thù, nhiều đội quân xâm lược có tiềm lực mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Tuy mỗi kẻ thù toan tính một kế hoạch riêng nhưng chúng đều thống nhất một mục tiêu là tiêu diệt quân đội và chính quyền cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh đó, tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân đã được Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng CTND. Có thể hiểu khái niệm CTND theo tư tưởng Hồ Chí Minh theo hai góc độ: Đây là cuộc chiến tranh được tiến hành bởi toàn thể nhân dân và là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, mang lại cho nhân dân độc lập, tự do, hạnh phúc, thống nhất, hòa bình... Theo Hồ Chí Minh, CTND ở một nước vừa thoát khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế kém phát triển, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của các nước tư bản phát triển phải thực hiện theo phương châm: "Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh".

Toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, giới tính... Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nên phải dựa chắc vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân và vũ trang toàn dân. Vì thế, "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc"; thực hiện đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, phương tiện với tinh thần "Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc". Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bác Hồ kêu gọi: "31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền... phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ".

Tại sao phải tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện liên hệ trách nhiệm sinh viên
Tại sao phải tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện liên hệ trách nhiệm sinh viên
Tại sao phải tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện liên hệ trách nhiệm sinh viên
Tại sao phải tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện liên hệ trách nhiệm sinh viên
Tại sao phải tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện liên hệ trách nhiệm sinh viên
Dân quân xã Chiềng Sinh (huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên) huấn luyện bắn súng. Ảnh:DƯƠNG HÀ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn đánh thắng những kẻ địch hung bạo, mạnh hơn ta gấp bội về kinh tế, quân sự, khoa học và công nghệ, chúng ta phải tiến hành chiến tranh toàn diện, trong đó mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già trẻ, gái trai, bất kỳ giàu nghèo, lớn nhỏ đều phải trở thành chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, là trực tiếp quyết định. Trong cuộc chiến tranh toàn diện, các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa... không bao giờ tách rời nhau mà luôn tác động, hỗ trợ lẫn nhau.

Nắm vững quy luật của chiến tranh cách mạng và kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài". Đánh lâu dài là do tương quan so sánh lực lượng ban đầu giữa ta và địch, địch dựa vào thế mạnh về quân sự, kinh tế để thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh; ta phải trường kỳ kháng chiến để tránh thế mạnh ban đầu của địch và có thời gian chuyển hóa lực lượng từ yếu thành mạnh để thắng địch.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng nói chung và chỉ đạo chiến tranh nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm chắc tình hình để phân tích cục diện trong nước và trên thế giới, đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch trong từng giai đoạn của cách mạng và chiến tranh, từ đó đề ra chiến lược, sách lược đúng đắn để chỉ đạo cuộc kháng chiến trường kỳ, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương trường kỳ kháng chiến, vừa chiến đấu vừa phát triển lực lượng, tích lũy kinh nghiệm để đủ sức đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta một lần nữa lại đề ra chiến lược đánh lâu dài với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do".

Trong các cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh luôn chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, đó là: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đây là hình thức tổ chức sáng tạo, thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, phù hợp với nghệ thuật quân sự và cách đánh của CTND Việt Nam, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc cho chiến tranh.

Bộ đội chủ lực là lực lượng giữ vị trí chiến lược quan trọng trong đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng, là lực lượng cơ động đánh địch trên chiến trường cả nước, "lo đánh những trận to để tiêu diệt chủ lực của địch. Phải giúp đỡ tổ chức và huấn luyện bộ đội địa phương và dân quân du kích". Bộ đội địa phương là một bộ phận của quân đội thường trực, lực lượng nòng cốt trong đấu tranh vũ trang và CTND ở địa phương; cùng với bộ đội chủ lực và dân quân, tự vệ tiêu diệt, tiêu hao lực lượng địch, bảo vệ Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương. Dân quân du kích, tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng rộng khắp, tham gia đánh địch tại chỗ, bảo vệ xóm làng, đường phố, góp phần tiêu hao lực lượng địch, giam chân, phân tán, chia cắt địch, làm cho chúng mệt mỏi, đui mù, đói khát và suy yếu.

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quan trọng của hậu phương chiến tranh-nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò to lớn của hậu phương trong CTND ở Việt Nam. Hậu phương là nơi đứng chân của lực lượng cách mạng trong buổi đầu, nơi giữ gìn và phát triển lực lượng, nơi cung cấp sức người, sức của cho chiến tranh, nơi xây dựng và phát triển chế độ mới, là cơ sở chính trị vững chắc trong chiến tranh. Trong xây dựng hậu phương chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu xây dựng toàn diện các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa… trong đó, Người đặc biệt coi trọng xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Xây dựng hậu phương gắn liền với xây dựng chế độ mới, làm cho nhân dân thấy rõ tính ưu việt của chế độ mới, qua đó càng khơi dậy lòng nhiệt tình cách mạng, ý thức tự giác và niềm tin tuyệt đối của nhân dân với Đảng, với cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tự lực cánh sinh, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, giữ vững chủ động trong chiến tranh. Tự lực cánh sinh là dựa vào sức mình là chính, cả sức mạnh vật chất và tinh thần của toàn thể dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: "Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập". Trong quan hệ quốc tế, sự giúp đỡ của nước khác thường kèm theo điều kiện nhất định, nếu không cẩn trọng sẽ dẫn đến sự phụ thuộc. Tuy nhiên, tự lực cánh sinh theo Hồ Chí Minh không đồng nghĩa với tự cô lập mình mà vẫn tìm mọi sự giúp đỡ, hợp tác với nước khác trên tinh thần độc lập, tự chủ.

Những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về CTND là cơ sở, nền tảng hình thành đường lối, nghệ thuật quân sự của Đảng-một trong những nhân tố quyết định thắng lợi quân sự to lớn của cách mạng Việt Nam. Trước những biến động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước cùng những phát triển mới của hình thái chiến tranh tương lai, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về CTND, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại táVŨ HỒNG KHANH

Từ xưa đến nay Việt Nam trải qua bao cuộc chiến tranh lớn nhỏ khác nhau và đều giành chiến thắng. Chiến tranh nhân dân là một cuộc chiến toàn dân, toàn diện nhằm mục đích để bảo vệ độc lập tự do của dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng. Vậy, chiến tranh nhân dân là gì?

Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

1. Chiến tranh nhân dân là gì? 

Chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do của dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng.

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 Luật Quốc phòng 2018 (Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019) thì khái niệm Chiến tranh nhân dân được quy định cụ thể như sau:

Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

chiến tranh chính nghĩa do quần chúng nhân dân tiến hành, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của giai cấp tiến bộ, bằng mọi lực lượng, mọi hình thức đấu tranh, mọi thứ vũ khí có trong tay, vì lợi ích của nhân dân chống ách áp bức thống trị bên trong hoặc sự xâm lược của nước ngoài. Mục đích chính trị của CTND càng triệt để thì lực lượng tham gia càng đông đảo, mạnh mẽ. CTND xuất hiện từ lâu trong lịch sử, khác với chiến tranh chỉ do quân đội tiến hành. Sức mạnh của CTND đã tạo điều kiện cho các dân tộc nhỏ có thể đánh thắng các đội quân xâm lược lớn mạnh hơn.

Chiến tranh nhân dân trong tiếng Anh là: People’s War.

2. Mục đích của chiến tranh nhân dân:

Chiến tranh nhân dân Việt Nam được hiểu là quá trình sử dụng tiềm lực của đất nước, nhất là tiềm lực quốc phòng an ninh, nhằm đánh bại ý đồ xâm lược lật đỏ của kẻ thù đối với cách mạng nước ta.

Nhằm mục đích đó là để: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

3. Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc:

– Đối tượng tác chiến:

Xem thêm: An ninh quốc phòng là gì? Lực lượng quốc phòng, an ninh bao gồm lực lượng nào?

Trong xu thế hội nhập hiện nay việc phân biệt đối tượng và đối tác cần phải phân biệt rõ đâu là đối tượng tác chiến của ta và đâu là đối tác làm ăn với chúng ta.

Do vậy đối tượng tác chiến của chúng ta là bất kể kẻ nào có hành động phá hoại, xâm lược, lật đổ cách  mạng nước ta đều là đối tượng tác chiến của ta. Hiện nay các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta và sẵn sàng sử dụng lực lượng vũ trang hành động quân sự can thiệp khi có thời cơ.

– Âm mưu, thủ đoạn chủ yếu của kẻ thù khi xâm lược nước ta:

Thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài vào với hành động bạo loạn lật đổ từ bên trong. Đồng thời kết hợp với các biện pháp phi vũ trang để lừa bịp dư luận.

Lực lượng tham gia với quân đông, vũ khí trang bị hiện đại.

Khi tiến công thường trong giai đoạn đầu sẽ bao vây, phong toả sau sử dụng hoả lực đánh bất ngờ, ồ ạt. Giai đoạn thực hành thôn tính lãnh thổ có thể đồng thời hỗ trợ của bạo loạn lật đổ ở bên trong của các lực lượng phản động và sử dụng các biện pháp chính trị, ngoại giao để lừa bịp dư luận.

Khi tiến hành chiến tranh xâm lược địch có điểm mạnh sau: Có ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, kinh tế và tiềm lực khoa học công nghệ. Có thể cấu kết được với lực lượng phản động nội địa, thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào

Khi tiến hành chiến tranh xâm lược địch có điểm yếu sau: Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa, chắc chắn bị nhân loại phản đối. Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, chống xâm lược, chắc chắn sẽ làm cho chúng bị tổn thất năng nề, đánh bại xâm lược của địch. Địa hình thời tiết nước ta phức tạp khó khăn cho địch sử dụng phương tiện, lực lượng.

Xem thêm: Quốc phòng toàn dân là gì? Biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh?

4. Tính chất của chiến tranh nhân dân:

– Là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

– Là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do của dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng.

– Là cuộc chiến tranh mạng tính hiện đại (hiện đại về vũ khí, trang bị, tri thức và nghệ thuật quân sự). Nhưng trước tiên ở đây hiện đại đòi hỏi phải hiện đại về côn người, con người phải nắm bắt được khoa học kỹ thuật và chỉ có làm chủ được khoa học kỹ thuật thì mới điều khiển, sử dụng được các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại và mới biết được cách phòng tránh và đánh trả cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao.

5. Đặc điểm của chiến tranh nhân dân:

Chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa  trong tình hình mới có những đặc điểm cơ bản sau:

– Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhằm góp phần thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do vậy, chúng ta có thể tập hợp, động viên và phát huy cao độ, đông đảo được sức mạnh của toàn dân cả nước, chung sức đánh giặc.

– Trong cuộc cuộc chiến tranh, nhân dân ta phải bảo vệ được độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cuộc chiến tranh mang tính độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời cũng được sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của cả loài người tiến bộ trên thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia và quốc tế, dân tộc và thời đại để đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù.

– Chiến tranh diễn ra khẩn trương, quyết liệt phức tạp ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh. Tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, địch sẽ thực hiện phương châm chiến lược đánh nhanh giải quyết nhanh. Quy mô chiến tranh có thể lớn và ác liệt ngay từ đầu. Kết hợp tiến công hoả lực với tiến công trên bộ, tiến công từ bên ngoài kết hợp với bạo loạn lật đổ ở bên trong và bao vây phong toả đường không đường biển và đường bộ để nhằm tới mục tiêu chiến lược trong thời gian ngắn.

– Hình thái đất nước được chuẩn bị sẵn sàng, thế trận quốc phòng, an ninh nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc, có điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp chủ động đánh địch ngay từ ngày đầu và lâu dài.

Xem thêm: Bộ Quốc phòng là gì? Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Quốc phòng?

Cuộc chiến tranh xâm lược nước ta nếu xảy ra, kẻ thù sẽ sử dụng quân số đông, vũ khí kĩ thuật hiện đại chống lại cuộc chiến tranh đó, chúng ta vẫn phải tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc. Phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tiến công địch toàn diện, trên tất cả các mặt trận bằng mọi phương tiện vũ khí kĩ thuật cả thô sơ và hiện đại, đánh bại âm mưu chiến lược từng thủ đoạn tác chiến, tiến tới đánh bại ý trí xâm lược của kẻ thù, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Để có thể giành thắng lợi chiến tranh đó, đất nước ta phải chuẩn bị mọi mặt, có tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh vững chắc, chính trị ổn định, tăng cường cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình ngăn ngừa khả năng chiến tranh có thể xảy ra.

Là thế hệ sinh viên của đất nước chúng ta cần tích cực học tập nghiên cứu củng cố lòng tin vào niềm tự hào của dân tộc và tích cực đóng góp tài năng, trí tuệ, công sức của mình vào nhiệm vụ xây tiềm lực quốc phòng, an ninh của ngành vững mạnh góp phần xây dựng nền quốc phòng, an ninh sẵn sàng tham gia đánh giặc khi đất nước có chiến tranh xảy ra.