Phân tịch cơ sở xã hội của kiểu nhà nước tư sản
Kiểu nhà nước tư sản là gì? Show
Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email: mailto:
CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA TÌNH HUỐNG NÀY
THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI
(Last Updated On: 13/08/2022) Nhà nước tư sản là gì? Nguồn gốc hình thành nhà nước tư sản? Bản chất, chức năng, hình thức, bộ máy của nhà nước tư sản. 1. Sự ra đời của nhà nước tư sảnTừ thế kỷ XV – XVII, ở phương Tây, chế độ phong kiến lâm vào thời kỳ khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển. Giai cấp tư sản ra đời, là giai cấp tiến bộ, đại diện cho lực lượng sản xuất mới. Giai cấp tư sản lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động, tiến hành cách mạng tư sản, lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản. Cuối thế kỷ XVI, cách mạng tư sản nổ ra đầu tiên ở Nê đéc lan (gồm Hà Lan, Bỉ, Lúc-xăm-bua). Mặc dù cuộc cách mạng thành công nhưng ảnh hưởng không sâu rộng. Đến giữa thế kỷ XVII, cách mạng tư sản ở Anh bùng nổ và giành thắng lợi. Cách mạng tư sản Anh có ảnh hưởng lớn đến tiến trình của lịch sử thế giới. Tiếp đó, trong thế kỷ XVIII – XIX, cách mạng tư sản thắng lợi ở Pháp, Mĩ, Nhật và nhiều nước Châu Âu. Sự thành công của các cuộc cách mạng tư sản dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước tư sản. Tuy vậy, sự ra đời của nhà nước tư sản diễn ra dưới những hình thức khác nhau phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế và mức độ đấu tranh giai cấp ở các nước cũng khác nhau. Nhà nước tư sản ra đời thông qua ba hình thức sau: – Nhà nước tư sản ra đời thông qua các cuộc cách mạng tư sản được tiến hành dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang, lãnh đạo các cuộc cách mạng tư sản là giai cấp tư sản nhưng lực lượng chủ yếu của cách mạng tư sản là giai cấp công nhân, nông dân và người lao động khác trong xã hội. Bằng con đường bạo lực, cách mạng tư sản xóa bỏ khá triệt để chế độ và trật tự phong kiến, thiết lập nền dân chủ tư sản, điển hình có Hà Lan, Anh, đặc biệt là cuộc cách mạng tư sản Pháp. – Thông qua các cuộc cải cách xã hội, nhà nước tư sản từng bước hình thành, trên cơ sở sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản đang lên và tầng lớp quý tộc phong kiến già nua, nhưng chưa hoàn toàn từ bỏ vị trí của mình trên trường chính trị. Nhưng do áp lực của phong trào quần chúng cách mạng, giai cấp tư sản từng bước thâu tóm quyền lực. Những nhà nước tư sản ra đời bằng con đường này là Đức, Tây Ban Nha, Nhật Bản,… – Sự hình thành các nhà nước tư sản ở những vùng đất mới như Hoa Kỳ, Canada, Ôxtrâylia diễn ra vào thế kỷ XVIII – XIX. Ở những miền đất này, giai cấp tư sản hình thành từ những người châu Âu di cư, đã dùng vũ lực, cơ chế nhà nước tư sản tiêu diệt và lấn áp các thổ dân với chế độ thị tộc của họ và thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa. Thông qua con đường hình thành nên nhà nước tư sản, có thể khái quát 4 giai đoạn phát triển của nhà nước tư sản: Giai đoạn từ thế kỷ XVI – XVIII – Được coi là giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Điển hình là cuộc cách mạng tư sản Anh, chiến tranh Pháp – Thổ và công xã Paris. – Ở giai đoạn này, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế, nó chỉ đóng vai trò là “người lính gác đêm” của chế độ sở hữu tư nhân, là công cụ bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân và kinh tế thị trường. Giai đoạn từ 1871 đến 1917 – Đây là giai đoạn chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền. Trong giai đoạn này do tập trung sản xuất cao độ đã hình thành nên các tập đoàn tư bản độc quyền. Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền là:
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền là có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước về kinh tế. Giai đoạn từ 1917 – 1945 Đây được coi là giai đoạn tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Với sự xuất hiện của Liên Xô, chủ nghĩa tư bản với tư cách là hình thái kinh tế – xã hội không còn chiếm địa vị độc tôn nữa. Các mâu thuẫn trong lòng xã hội trở nên không thể điều hòa được, biểu hiện bằng sự bùng nổ của hai cuộc đại chiến thế giới. Các nước thuộc địa cũng đứng lên đấu tranh giành độc lập, góp phần làm tan rã từng bộ phận của chủ nghĩa tư bản. Nhà nước tư sản ngày càng can thiệp sâu vào đời sống kinh tế vì lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền lớn. Ở khắp các nước tư bản phát triển, chủ nghĩa tư bản đã trở thành tư bản độc quyền nhà nước. Đây là một thể chế chính trị kết hợp sức mạnh kinh tế tư bản độc quyền với quyền lực nhà nước thành cơ chế thống nhất nhằm làm giàu thêm cho tư sản, đàn áp mạnh mẽ bằng nhiều biện pháp đối với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các dân tộc đứng lên đòi độc lập, gây chiến tranh xâm lược nhằm chia lại thị trường thế giới, cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản khỏi sụp đổ. Giai đoạn từ 1945 đến nay
Tóm lại, qua các giai đoạn phát triển phức tạp, bản chất của nhà nước tư sản vẫn không thay đổi, vẫn là công cụ thực hiện chuyên chính tư sản. Tuy nhiên, đánh giá bản chất của nhà nước tư sản cần phải xem xét nó trong tiến trình lịch sử cụ thể, khách quan của từng giai đoạn phát triển. 2. Bản chất của nhà nước tư sảnThắng lợi của cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của nhà nước tư sản đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ và tiến bộ, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Mặc dù vậy, nhà nước tư sản vẫn không vượt khỏi bản chất là nhà nước bóc lột. Bản chất của nhà nước tư sản do chính các điều kiện nội tại của xã hội tư sản quyết định, đó là cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng. – Cơ sở kinh tế
– Cơ sở xã hộiChính phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa làm thay đổi cơ bản kết cấu xã hội. Nếu như phương thức sản xuất phong kiến, nông nghiệp chiếm ưu thế trong xã hội nên hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân, trong phương thức tư bản chủ nghĩa, với sự phát triển của thương mại, khoa học – kĩ thuật, công nghiệp, xã hội tư bản hình thành nên giai cấp tư sản, giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp thương nhân cùng với các nhà khoa học, kĩ thuật và các nhà doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực.
Tóm lại, tính giai cấp của nhà nước tư sản thể hiện thông qua giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp thương nhân cùng với các nhà khoa học, kĩ thuật và các nhà doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực và mức kinh doanh khác nhau. – Cơ sở tư tưởngVề mặt tư tưởng giai cấp tư sản luôn tuyên truyền về tư tưởng dân chủ – đa nguyên, nhưng trên thực tế lại tìm mọi cách đảm bảo địa vị độc tôn của ý thức hệ tư sản, ngăn cản mọi sự phát triển và tuyên truyền tư tưởng cách mạng, tiến bộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Như vậy, nhà nước tư sản thực hiện chuyên chính tư sản, như Lênin đã chỉ rõ: “những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau nhưng thực chất chỉ là một: chung quy thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”. 3. Chức năng của nhà nước tư sảnBản chất của nhà nước tư sản thể hiện thông qua các chức năng đối nội và đối ngoại của nó. Chức năng của nhà nước tư sản chính là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. a. Chức năng đối nội* Chức năng chính trị
* Chức năng kinh tế
* Chức năng xã hội
* Chức năng trấn áp về tư tưởng
b. Chức năng đối ngoại* Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong trào cách mạng thế giới
– Chức năng phòng thủ Đây là một trong những chức năng được nhà nước tư sản rất coi trọng. Nó được thể hiện bằng việc nhà nước tư sản đã xây dựng các lực lượng vũ trang tinh nhuệ nhằm phòng ngừa sự xâm lược của các quốc gia khác hoặc tham gia liên minh quân sự để thực hiện phòng thủ chung giữa các quốc gia liên minh. – Thiết lập và phát triển các quan hệ ngoại giao Trong giai đoạn hiện nay bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi vì thế nhiều nhà nước tư sản có sự thay đổi tích cực trong quan hệ đối ngoại. Giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo. Bên cạnh đó, các nhà nước tư sản tăng cường mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực phát triển xã hội như: kinh tế, văn hoá – xã hội, môi trường, khoa học – kỹ thuật, các vấn đề nhân đạo… với các nước có chế độ chính trị khác nhau. 4. Bộ máy nhà nước tư sảnTrong điều kiện đấu tranh gay gắt, sự thống trị về kinh tế sẽ không đứng vững nếu không có sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản. Chính vì thế, bộ máy nhà nước với lực lượng cưỡng chế khổng lồ ra đời, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp tư bản đối với toàn xã hội, bảo vệ trật tự xã hội tư sản. Vì vậy, bộ máy nhà nước tư sản có những đặc trưng sau: Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực Nguyên tắc này căn cứ theo học thuyết của Locker và Montesquieu – những người sáng lập ra thuyết phân quyền cho rằng cần hạn chế sự chuyên quyền, độc đoán bằng việc phân chia quyền lực nhà nước cho những cơ quan khác nhau, chứ không tập trung quá nhiều vào một cơ quan nhất định.
Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, đa nguyên chính trị và đa đảng
Từ những đặc trưng trên có thể nhận thấy cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước tư sản gồm: a. Nguyên thủ quốc giaTrong hệ thống cơ quan nhà nước tối cao của các nước tư bản, về mặt pháp lý, nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, chịu trách nhiệm lãnh đạo bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, việc trở thành và thôi chức nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản là khác nhau. Đối với các nước có chính thể quân chủ như Anh, người đứng đầu là vua được thiết lập trên cơ sở kế truyền. Còn trong các nước có chính thể cộng hòa, nguyên thủ quốc gia là tổng thống và được thiết lập trên cơ sở bầu cử. Chức vụ này có thể được bầu lên do phổ thông đầu phiếu trực tiếp (Pháp), có thể do đại cử tri (Mỹ), hoặc do Nghị viện bầu ra (Hy Lạp) hay do Đại hội của Quốc hội với đại diện các tỉnh bầu ra (Ý, Đức). Nguyên thủ quốc gia có quyền hạn lớn nhất là ở trong chính thể cộng hòa tổng thống, điển hình là Mỹ, nơi mà tổng thống vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ. Còn ở các nước quân chủ đại nghị, nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất đại diện, hình thức (Anh, Nhật Bản). Nhiệm kỳ của nguyên thủ quốc gia ở các nước quy định cũng không giống nhau, có thể là 4 năm, 5 năm hoặc 7 năm. Có nước Nguyên thủ quốc gia không thể được bầu quá hai nhiệm kỳ (Mỹ, Phần Lan). b. Nghị ViệnNghị viện có vị trí đặc biệt trong hệ thống cơ quan trung ương của nhà nước tư sản. Như Yves Meny – học giả người Pháp đã viết: “nếu tồn tại một biểu tưởng của chế độ đại diện thì đó chính là nghị viện”. Nghị viện tư sản phát triển qua các giai đoạn tương ứng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Giai đoạn đầu, nghị viện là cơ quan nhà nước có vai trò rất lớn. Nước Anh là quê hương của nghị viện tư sản. Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh là thời hoàng kim của nghị viện. Lúc bấy giờ, người Anh có câu ngạn ngữ “nghị viện có quyền được làm tất cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành đàn bà”. Nghị viện có quyền hạn rất lớn, gồm quyền lập pháp; quyền quyết định ngân sách và thuế; quyền giám sát hoạt động của nội các, bầu hoặc bãi nhiệm các thành viên của nội các. Nhưng khi chủ nghĩa đế quốc xuất hiện thì chế độ nghị viện bước vào giai đoạn khủng hoảng. Ngày nay, quyền hạn của nghị viện bị giảm trong lĩnh vực làm luật, trong các quyết định về ngân sách cũng như trong kiểm tra hoạt động của chính phủ. Về cách thức tổ chức, nghị viện được phân thành một viện hoặc hai viện. Một số nước, nghị viện được tổ chức theo chế độ một viện là Đan Mạch, Thụy Sỹ, Bồ Đào Nha, Phần Lan,… Đại đa số các nước tư bản phát triển đều tổ chức thành hai viện là hạ nghị viện và Thượng nghị viện, đó là Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý,… Hạ nghị viện đại diện cho tầng lớp dân cư trong xã hội và bầu theo tỷ lệ dân số. Thượng nghị viện đại diện cho quyền lợi của các bang, các chủ thể liên bang (trong nhà nước liên bang); đại diện cho các đơn vị hành chính lãnh thổ cao nhất hoặc đại diện cho tầng lớp quý tộc (trong nhà nước đơn nhất). c. Chính phủChính phủ ở các nước tư bản là cơ quan hành pháp cao nhất, chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở trung ương. Trên thực tế, quyền hạn của chính phủ trong lĩnh vực hành pháp là rất rộng. Nó quyết định phần lớn các chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước. Cách thức bổ nhiệm thủ tướng và các thành viên của chính phủ ở các nước cũng có điểm khác nhau. Ở các nước theo chính thể quân chủ lập hiến, cộng hòa nghị viện và cộng hòa lưỡng tính, đứng đầu chính phủ là thủ tướng. Cơ cấu của chính phủ gồm thủ tướng, phó thủ tướng và các bộ trưởng. Việc thành lập ra chính phủ được tiến hành theo nguyên tắc chung là đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện như Anh, Pháp, Đức. Như vậy, việc thành lập chính phủ phụ thuộc vào kết quả bầu cử nghị viện. Thủ tướng và các thành viên Chính phủ có thể do Tổng thống bổ nhiệm (Ý, Pháp), có thể do nghị viện bầu (Nhật Bản), hoặc có thể có sự kết hợp giữa Nghị viện và Tổng thống (Đức). Ở các nước theo chính thể cộng hòa tổng thống, đứng đầu chính phủ là tổng thống. Thành phần Chính phủ ở các nước tư bản này gồm tổng thống, phó tổng thống và các bộ trưởng. Điển hình nhà nước tư bản theo chính thể cộng hòa tổng thống là Mỹ. Tổng thống ở nước này vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu chính phủ. Các thành viên của chính phủ do tổng thống bổ nhiệm với sự đồng thuận của thượng nghị viện. d. Tòa ánTrong bộ máy nhà nước tư sản, về mặt hình thức, tòa án là cơ quan có vị trí độc lập với các cơ quan nhà nước khác. Về loại hình, thông thường tòa án được xây dựng thành ba hệ thống: tòa án truyền thống, tòa án hiến pháp và tòa án hành chính.
Hoạt động xét xử của tòa án thưởng được tổ chức theo hai cấp xét xử: Hệ thống tố tụng tranh tụng và hệ thống tố tụng thẩm vấn Hệ thống tố tụng tranh tụng, vai trò của thẩm phán được đề cao. Thẩm phán trực tiếp xét hỏi, thẩm vấn các vấn đề cần làm rõ trong vụ án. Trong hệ thống này, điều tra và truy tố trước khi diễn ra phiên tòa được chú trọng. Trong hệ thống tố tụng thẩm vấn, vai trò của thẩm phán thì ngược lại. Ở đây, thẩm phán chỉ có vai trò như một trọng tài, lắng nghe lập luận của các bên và tự mình phán xét. Còn thẩm vấn tại phiên tòa nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án thuộc về luật sư của các bên trong vụ án dân sự hoặc thuộc về ủy viên công tố và luật sư bào chữa trong vụ án hình sự. e. Hệ thống quân đội, cảnh sátNhà nước tư sản đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng lực lượng này, đặc biệt trong điều kiện khi mâu thuẫn xã hội gay gắt hoặc khi cuộc chiến tranh trở nên quyết liệt. Hệ thống quân đội và cảnh sát luôn được nhà nước tư sản chú trọng đầu tư, chi một khoản không nhỏ trong ngân sách nhà nước nhằm tăng cường và hiện đại hóa quân đội và cảnh sát; luôn được ưu tiên đầu tư những thiết khoa học kỹ thuật hiện đại nhất. Trong quan hệ đối ngoại, khi xảy ra xung đột hoặc tranh chấp, quân đội được nhà nước tư sản dùng làm công cụ thực hiện chính sách răn đe. Còn trong quan hệ đối nội, cùng với quân đội, cảnh sát là lực lượng đàn áp các thế lực đối lập, bảo vệ trật tự xã hội và trật tự công cộng trong xã hội tư sản. 5. Hình thức nhà nước tư sảnNhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nói chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như Cộng hoà Đại nghị, Cộng hoà Tổng thống, Cộng hòa hỗn hợp (hay cộng hòa lưỡng tính) trong đó hình thức cộng hoà Đại nghị là hình thức điển hình và phổ biến nhất. Trong thực tế, nhằm thích ứng với điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, các hình thức cụ thể của nhà nước tư sản hiện đại lại có sự khác nhau khá lớn, về chế độ bầu cử, chế độ tổ chức một viện hay hai viện, về nhiệm kỳ tổng thống, về sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và nội các. Hình thức của nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay đổi bản chất của nó – đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị giai cấp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản. V.I.Lênin đã phát biểu rằng: “Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”. a. Hình thức chính thể– Chính thể quân chủ lập hiến
– Chính thể cộng hòa tổng thống
– Chính thể cộng hòa đại nghị
Ngoài chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị, còn tồn tại hình thức chỉnh thể cộng hòa hỗn hợp (hay cộng hòa lưỡng tính).
b. Hình thức cấu trúc– Nhà nước đơn nhất
– Nhà nước liên bang
– Nhà nước liên minh
c. Chế độ chính trị– Chế độ dân chủ tư sản. Trong các chế độ chính trị do nhà nước tư sản thực hiện, chế độ dân chủ tư sản là cơ chế chính trị tốt nhất. Nó được biểu hiện bởi các dấu hiệu:
– Chế độ quân phiệt
Nguồn tham khảo: topica.edu.vn |