Phạm vi điều chỉnh, luật tài chính - ngân hàng

Luật Tài chính là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ, các nguồn vốn tiền tệ gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước và hoạt động của các chủ thể kinh tế xã hội khác.

Tham khảo thêm: Chăm sóc khách hàng làm những gì? Kỹ năng chăm sóc khách hàng

Bạn đang xem: Luật tài chính là gì

Các nội dung liên quan:

  • Khái niệm, đặc điểm, chức năng và vai trò của ngân sách nhà nước
  • Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật ngân hàng
  • Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp

Tham khảo thêm: Chăm sóc khách hàng làm những gì? Kỹ năng chăm sóc khách hàng

Bạn đang xem: Luật tài chính là gì

Luật Tài chính là ngành luật độc lập

Mục lục:

  1. Khái niệm Luật Tài chính
  2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính
  3. Phương pháp điều chỉnh của luật tài chính

Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính

Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính đã vượt ra ngoài phạm vi tài chính công, tài chính nhà nước. Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính hiện nay bao gồm cả những quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, quan hệ tài chính của các tổ chức, cá nhân trên thị trường tài chính. Những quan hệ này không nhất thiết phải có sự tham gia của nhà nước với tư cách là bên chủ thể. Như vậy, có thể nói, các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính rất đa dạng, có nhiều chủ thể tham gia ở nhiều cấp độ khác nhau.

Tham khảo thêm: Account Intern là gì? Cần chuẩn bị những gì để trở thành Account Manager? – Nghề Content

Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính thường được phân chia theo 2 cách dựa vào những tiêu chí khác nhau:

– Căn cứ vào lĩnh vực mà các quan hệ tài chính được hình thành, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính được phân biệt thành:

  • Các quan hệ tài chính – ngân sách. Đây là nhóm quan hệ tài chính phát sinh gắn liền với việc hình thành, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.
  • Các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Đây là nhóm quan hệ phát sinh trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
  • Các quan hệ tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm. Những quan hệ liên quan đến việc các tổ chức kinh doanh bảo hiểm huy động được nguồn vốn và đưa chúng tham gia vào thị trường tài chính bằng các hình thức khác nhau đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế.
  • Các quan hệ tín dụng. Các quan hệ liên quan đến hoạt động huy động vốn, cho vay vốn của các tổ chức trung gian tài chính trong quá trình hình thành các nguồn tài chính đáp ứng cho nhu cầu vốn của nền kinh tế sẽ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính.
  • Các quan hệ tài chính trong khu vực dân cư, các tổ chức xã hội.

– Căn cứ vào hệ thống các chủ thể tham gia các hoạt động tài chính, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính bao gồm:

  • Quan hệ tài chính giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương trong hoạt động thu, chi phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
  • Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tín dụng với nhau phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tiền tệ khác.
  • Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các quan hệ này phát sinh trong việc cấp phát vốn, thu nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
  • Các quan hệ tài chính giữa các cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với dân cư.
  • Nhóm quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp.

Phương pháp điều chỉnh của luật tài chính

Luật tài chính sử dụng hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh bắt buộc và phương pháp bình đẳng thỏa thuận.

Xem thêm: Tìm Hiểu Chế Độ Econo Cool Là Gì, Hướng Dẫn Sử Dụng Điều Hòa Mitsubishi Đúng Cách – sentayho.com.vn

  • Phương pháp mệnh lệnh: thể hiện mối quan hệ bất bình đẳng giữa các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật tài chính, một bên nhân danh nhà nước có quyền ra lệnh buộc chủ thể bên kia phải thực hiện những hành vi nhất định như trong quan hệ thu nộp thuế, cấp phát kinh phí.
  • Phương pháp bình đẳng thỏa thuận: thể hiện các chủ thể tham gia trong quan hệ tài chính bình đẳng về địa vị pháp lý. Sự bình đẳng thể hiện ở quyền và nghĩa vụ tài chính mà các bên phải thực hiện hoặc trong trường hợp các bên không phải thực hiện nghĩa vụ và thể hiện quyền tự quyết định trong khuôn khổ pháp luật của các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật tài chính như các quan hệ phát sinh trong quá trình phân phối nguồn tài chính do các tổ chức kinh tế tạo ra trong quá trình hình thành, sử dụng quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong xã hội.

1. Mở đầu vấn đề

Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng là một loại chính sách pháp luật chuyên ngành có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển đất nước.

Giới nghiên cứu ở các quốc gia phát triển dành sự quan tâm rất lớn đến việc nghiên cứu chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng, xây dựng và thực thi chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng.

2. Khái niệm chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng

Pháp luật tài chính [Financial legal] là hệ thống các qui phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tài chính của các chủ thể, nhằm thiết lập, duy trì một trật tự xã hội nhất định đối với các hoạt động tài chính.

Luật ngân hàng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước tổ chức và quản lí hoạt động ngân hàng, các quan hệ về tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.

=> Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thôhg của các cơ quan nhà nước và của các thiết chế kinh tế, xã hội để xây dựng chiến lược và sách lược phát triển pháp luật tài chính - ngân hàng, nâng cao hiệu quả của cơ chế đĩêu chỉnh pháp luật tài chính - ngân hàng, tối ITM hóa việc thực hiện các nhiệm vụ của cấc cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.

Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng được hình thành trên cơ sở dựa vào các quy định của Hiến pháp, được cụ thể hóa trong các luật, trong các văn bản quy phạm pháp luật khác ở trung ương và địa phương.

Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng liên quan đến các quan hệ ngân sách, ngân hàng, thuế, tín dụng nhà nước và các quan hệ tài chính khác.

3. Đặc trưng của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng

Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng có đặc trưng thể hiện ở khả năng tác động rộng lớn của nó đến sự phát triêh kinh tế - xã hội của đất nước, đến việc giải quyết những vấn đề về sự ổn định và hiệu quả của phát triển kinh tế, đến việc nâng cao mức sống của Nhân dân, đến việc bảo đảm an ninh quốc gia, sự phát triển hợp tác và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia của Việt Nam.

Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng bằng sự tác động bao quát về mặt thực tế của mình đến tất cả các lĩnh vực hoạt động sống của xã hội và của Nhà nước, và suy cho cùng, sự tác động đó được phản ánh trong lợi ích của từng con người, trong thực hiện các quyền và các nghĩa vụ đã được pháp luật ghi nhận.

Cần phân biệt chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng với chính sách tài chính - ngân hàng với tư cách một loại chính sách công.

Chính sách tài chính - ngân hàng là một bộ phận hợp thành của chính sách kinh tế - loại chính sách được thể hiện trong hoạt động của Nhà nước nhằm hình thành các nguồn lực tài chính và việc sử dụng các nguồn lực đó để thực hiện các chưong trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phân bổ các nguồn lực tài chính giữa các ngành kinh tế, các vùng, các địa phương, cũng như việc thực hiện các chức năng khác của Nhà nước.

Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách tài chính - ngân hàng bằng cách các cơ quan quyền lực nhà nước ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật quy định các quyền và các nghĩa vụ của những người tham gia các quan hệ pháp luật tài chính - ngân hàng, cũng như trách nhiệm đối với việc vi phạm các quyền và các nghĩa vụ đó.

Nội dung này thể hiện vai trò quan trọng của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng trong việc bảo đảm hiệu quả hoạt động của Nhà nước và việc thực hiện các chiến lược, chương trình phát triển đất nước đã được dự liệu.

Vai trò của chính sách pháp luật tài chánh - ngân hàng được gia tăng khi gắn với việc đặt ra các nhiệm vụ phát triển đất nước mà việc thực hiện các nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có các nguồn lực tài chính rất lớn. Nhu cầu soạn thảo chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng sâu sắc, toàn diện, có luận cứ khoa học trở nên cấp bách và cần được đặc biệt quan tâm trong điều kiện xuất hiện các hiện tượng khủng hoảng kinh tế ở phạm vi toàn cầu, bao gồm các cuộc chiến thương mại, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

4. Khái quát về tổng thể định hướng của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng

Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng với tư cách là một loại, một mắt xích độc lập trong hệ thống chính sách pháp luật, đến lượt mình, bao gồm tổng thể các định hướng nhất định, trong đó có: chính sách pháp luật ngân sách, chính sách pháp luật thuế, chính sách pháp luật tín dụng, chính sách pháp luật ngân hàng, chính sách pháp luật phát hành, chính sách pháp luật tiền tệ và các định hướng khác của chính sách pháp luật tài chính.

Chính sách pháp luật ngân sách là chính sách pháp luật có dung lượng lớn nhất theo lĩnh vực tác động căn cứ trên mối liên hệ trực tiếp của pháp luật ngân sách với các tiểu ngành pháp luật khác của pháp luật tài chính. Việc làm sáng tỏ bản chất và ý nghĩa của sự tương tác như vậy của chính sách pháp luật ngân sách với các tiểu ngành pháp luật khác của pháp luật tài chính tạo điều kiện cho việc mở rộng khả năng thúc đẩy và tăng cường vai trò của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng nói chung.

Chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng hiện nay của nước ta có đặc trưng thể hiện ở tính năng động phát triển của nó, bởi nền tảng của nó là pháp luật tài chính - ngân hàng được phát triển rất tích cực, đặc biệt trong giai đoạn đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, do đó, một nhóm lớn các quy phạm pháp luật tài chính - ngân hàng được đổi mói và được mở rộng một cách cơ bản, đã được đưa vào các tiểu ngành pháp luật và các chế định pháp luật thuộc pháp luật tài chính - ngân hàng, cơ cấu của pháp luật tài chính - ngân hàng đã được hình thành... Các hình thức của các văn bản pháp luật tài chính - ngân hàng từng bước được hoàn thiện.

Tuy vậy, cơ cấu của pháp luật tài chính - ngân hàng nói chung, trong đó có pháp luật tài chính cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng xây dựng Bộ luật Ngân sách và Bộ luật Thuế. Việc xây dựng, ban hành và thực thi hai bộ luật đó không chỉ nâng cao hiệu quả của các quy phạm pháp luật tài chính mà còn cả hiệu quả của chính sách pháp luật tài chính.

Ví dụ, trong hệ thống pháp luật tài chính hiện hành không có tổ hợp các quy phạm quy định các luận điểm chung của ngành pháp luật này và tính định hướng của nó nói chung, tức là phần chung của ngành pháp luật này. Trong các văn bản quy phạm pháp luật tài chính hiện nay không có các quy định khái quát về các vi phạm pháp luật tài chính và trách nhiệm pháp luật tài chính, chưa phân loại các vi phạm pháp luật tài chính và chưa được ghi nhận bằng luật một cách có hệ thống. Trong các văn bản quy phạm pháp luật đó chỉ chứa đựng các quy phạm quy định một cách riêng biệt các vi phạm pháp luật tài chính và trách nhiệm đối với các vi phạm đó trong từng tiểu ngành tương ling của pháp luật tài chính.

Trong số những vấn đề của việc hoàn thiện pháp luật tài chính, và cùng với nó, của việc hoàn thiện chính sách pháp luật tài chính, những vâh đề cần phải được quan tâm giải quyết trước hết là những vâh đề liên quan đến hệ thống ngành pháp luật này, bao gồm các tiểu ngành pháp luật, các chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật tương ứng được đưa vào ngành pháp luật đó. Ngoài ra, việc phân tích tổng thê’ các quy phạm pháp luật hiện hành của ngành pháp luật đó nói chung cũng cho phép rút ra kết luận rằng, sự điều chỉnh pháp luật các quan hệ pháp luật tài chính là chưa đầy đủ, chưa hệ thống. Chẳng hạn, các quan hệ nảy sinh trong việc kiểm kê tài sản chưa được đưa vào phạm vi điều chỉnh của pháp luật tài chính, còn các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ đó không có vị trí trong hệ thống pháp luật tài chính với tư cách một tiểu ngành pháp luật của nó.

Các quan hệ nảy sinh trong lĩnh vực kiểm kê tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật tài chính, bởi vì, việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính, đặc biệt của việc giám sát, kiểm tra tài chính không thể thiếu công cụ được sử dụng đê’ tổng kết một cách có hệ thống và phản ánh thông tin về các kết quả hoạt động kinh tế của bất kỳ chủ thê’ của các quan hệ pháp luật đó trong vật ngang giá bằng tiền. Công cụ như vậy là kiểm kê tài sản tài chính. Do vậy, cần phải tập họp các quy phạm pháp luật tương ứng trong hệ thống pháp luật tài chính thành một tiểu ngành pháp luật của nó.

5. Kết thúc vấn đề

Ngoài những vấn đề đã được nêu ở trên, trong lĩnh vực điều chỉnh pháp luật tài chính - ngân hàng cũng đang xuất hiện những vấn đề khác cần phải được quan tâm nghiên cứu và giải quyết kịp thời, đầy đủ hơn.

Thêm vào đó, cũng cần phải lưu ý và cân nhắc đầy đủ rằng, lĩnh vực tài chính có đặc điểm thê’ hiện ở chỗ việc điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực này được tiến hành ở hai cấp độ quyền lực: ở cấp độ trung ương và ở cấp độ địa phương, do vậy, vâh đề đặt ra không chỉ là soạn thảo chính sách pháp luật tương ứng ở hai cấp độ đó, mà còn phải bảo đảm sự phối hợp hài hòa trong việc xây dựng và thực hiện chính sách đó ở hai cấp độ quyền lực đã được nêu. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng.

Việc điều chỉnh pháp luật các quan hệ tài chính - ngân hàng phù hợp với các định hướng của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng được hình thành dựa trên các nguyên tắc rõ ràng do các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội quy định là nhân tố quan trọng của việc giải quyết có kết quả các nhiệm vụ được đặt ra đối vói Nhà nước và xã hội.

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề