Điểm khác biệt của các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới thời Nguyễn so với các triều đại khác là gì

Triều Nguyễn xác lập và khẳng định chủ quyền của nước ta đối với biển, đảo

Cập nhật lúc 08:15 ngày 06/01/2017

/Images/Upload/Article/0/28/2863/697104.jpg

Biển, đảo giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc, nhất là chủ quyền đối với các quần đảo trên Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc... Có thể nói, triều Nguyễn là triều đại đã vẽ nên một hình thể lãnh thổ đất nước thống nhất từ đất liền đến biển, đảo để có một nước Việt Nam hoàn chỉnh hiện nay.

Khẳng định Triều Nguyễn xác lập chủ quyền của nước ta đối với biển, đảo, PGS, TS Đỗ Bang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế cho biết: Các vua triều Nguyễn bấy giờ đã xác lập và khẳng định chủ quyền của nước ta đối với biển, đảo Tổ quốc. Bằng chứng là ngôi chùa có tên Hoàng Sa tự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa là do Cai đội Phạm Văn Nguyên cùng lính và phu dân hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi chuyên chở vật liệu từ đất liền ra xây dựng.

Điểm khác biệt của các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới thời Nguyễn so với các triều đại khác là gì

Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn vẽ khoảng năm 1838, đã vẽ "Hoàng Sa", "Vạn lý Trường Sa" thuộc lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam.

Tháng 6 âm lịch năm Ất Mùi niên hiệu Minh Mạng 16 (năm 1835), sách Đại Nam thực lục chép rằng: “Dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía Bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu. Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mươi ngày làm xong rồi về”.

Hoàng Sa tự là “bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam” tại Hoàng Sa. Về vấn đề này, GS, TSKH Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định: “Có thể nói đến thời Nguyễn, chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được thiết lập và thực thi một cách đầy đủ và toàn vẹn, không có sự tranh chấp nào. Chính vì vậy, khi đánh chiếm được Việt Nam, Pháp đã mặc nhiên đặt quyền quản lý của chính quyền đô hộ lên hai quần đảo. Người Pháp đã cho xây dựng các đài khí tượng, trạm quan trắc và cắt đặt lính đồn trú trên các đảo”.

Từ đó có thể khẳng định, dưới thời Nguyễn, chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được thiết lập và thực thi một cách đầy đủ và toàn vẹn, không có tranh chấp. Bằng chứng là nhà Nguyễn bằng việc huy động một lực lượng lớn bao gồm quan chức của các cơ quan Trung ương Nội các, Bộ Công, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Hình, Giám thành Khâm thiên giám, thuỷ sư... phối hợp với quan chức địa phương và ngư dân các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định hàng năm thực thi công vụ Hoàng Sa như vẽ bản đồ, kiểm kê tài nguyên trên đảo, đo đạc hải trình, cắm cọc tiêu, trồng cây, dựng miếu, cắm bia chủ quyền, xây dựng hệ thống kho tàng, đồn luỹ, đặt trạm thu thuế, quan trắc thiên văn và dự báo thời tiết.

Chính vì vậy, khi đánh chiếm được Việt Nam, Pháp đã mặc nhiên đặt quyền quản lý của chính quyền đô hộ lên hai quần đảo này. Người Pháp đã cho xây dựng các đài khí tượng, trạm quan trắc và cắt đặt lính đồn trú trên các đảo. Trong suốt quá trình tồn tại, các vị vua triều Nguyễn đều nhận thức biển đảo có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn vong của triều đại, với an ninh quốc gia, dân tộc. Nó được xem là nhân tố, là cơ sở để phòng thủ, bảo vệ quốc gia từ xa trước sự dòm ngó của bên ngoài, nhất là các nước phương Tây. Đó cũng chính là một trong những yếu tố tác động đến ý thức hướng biển và chủ trương tăng cường phòng thủ biển, đảo của triều Nguyễn.

Trong một nghiên cứu mới nhất về chủ quyền biển, đảo qua các tư liệu xác thực dưới triều Nguyễn như châu bản và các bộ chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí… TS Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế cho biết triều Nguyễn xác lập và thực thi chủ quyền đối với biển, đảo từ giai đoạn 1802 - 1945.

Đáng chú ý, triều Nguyễn được thành lập năm 1802, nhưng trước đó hơn 200 năm, kể từ năm 1558, các đời chúa Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần đã có công lao to lớn trong việc mở mang bờ cõi, bao gồm toàn bộ đất miền Nam và vùng biển đảo phía Nam và Tây Nam của Tổ quốc. Quá trình đấu tranh để khôi phục và thống nhất đất nước của vị hoàng đế đầu triều Nguyễn - Vua Gia Long cũng gắn liền với các hoạt động trên biển, đảo. Việt Nam là một quốc gia gắn liền với biển do địa thế đặc biệt là nằm kề cận Biển Đông, nhìn mặt ra Thái Bình Dương với quá nửa đường biên giới giáp biển. Vì vậy, các vua triều Nguyễn đều ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của biển, đảo đối với việc bảo vệ đất nước, mở mang giao thông, phát triển kinh tế và khai thác các nguồn lợi từ biển, đảo. Dưới thời Nguyễn, khu vực biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập từ bắc chí nam, tương đương với khu vực biển, đảo của chúng ta hiện nay, đó là vùng biển từ Quảng Yên (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang) với các đảo ven bờ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa, Trường Sa.

Theo Đại Nam nhất thống chí, trong thời Nguyễn đã có hàng chục tòa pháo đài, đồn bảo, cửa tấn được xây dựng kiên cố dọc theo vùng biển của đất nước bao gồm cả trên bờ và các đảo gần bờ từ Bắc chí Nam. Tại kinh đô Huế, ngoài tuyến phòng thủ từ xa và tuyến phòng thủ trung tâm trên đường bộ, triều Nguyễn còn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống đồn lũy, cửa tấn ven biển. Năm 1813, vua Gia Long cho xây Trấn Hải thành ở cửa biển Thuận An (thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nay). Đây là một pháo đài quân sự kiên cố hình tròn, chu vi 285 m, cao 6,3 m, dày 4 m; xung quanh có hào nước sâu bao bọc, trên đắp 99 ụ súng, ngoài đóng cọc, xây kè và cho trồng 4.000 cây dừa để ngăn sóng biển.

Ngoài pháo đài này là một hệ thống đồn lũy khác bên cạnh cửa Thuận An, gồm Đồn Hòa Duân, Đồn Côn Sơn, Đồn Hạp Châu và đập chắn Thuận An. Hệ thống đồn lũy này đều được bố trí một lực lượng lớn binh lính với các vũ khí mạnh nhất của triều Nguyễn. Cuối năm 1861, tại khu vực này có 1.961 binh lính, 308 đại bác các loại; đến những năm 1881 - 1882, số binh lính và vũ khí còn được tăng cường nhiều hơn nữa. Ngoài cửa Thuận An, triều Nguyễn cho xây dựng hệ thống đồn lũy phòng thủ ở các cửa biển Hải Vân, Chu Mãi (Chân Mây), Cảnh Dương và cửa Tư Hiền để bảo vệ các vùng biển quan trọng thuộc kinh đô. Tại cửa biển Đà Nẵng - Quảng Nam, khu vực được xem là cửa ngõ mặt nam của kinh đô Huế, nơi có cảng quốc tế Hội An vốn đã hoạt động từ hàng trăm năm trước, triều Nguyễn cũng đặc biệt chú ý đến vấn đề phòng thủ cửa biển.

Vua Gia Long quy định việc đón tiếp các đoàn sứ ngoại quốc đến quan hệ với vương triều bắt buộc phải qua cảng Đà Nẵng. Các vua triều Nguyễn kế tiếp sau như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức... đều nhất quán thực thi luật định này một cách nghiêm túc. Đến cuối triều Minh Mạng, hệ thống bố phòng với những vũ khí hiện đại đã được xây dựng khá hoàn chỉnh tại các pháo đài trên tuyến biển.

Nguồn: bqp.vn

Vì vậy, song song với việc dùng biện pháp quân sự và hành chính để đàn áp và khống chế nhân dân, các vua triều Nguyễn đều đặc biệt chú trọng đến việc khẩn hoang, coi đó là một biện pháp tích cực nhất đưa dân vào công việc sản xuất, giải quyết được nạn dân lưu tán, giảm bớt mâu thuẫn xã hội, đồng thời lại có thể tăng thêm diện tích trồng trọt và tăng thêm thu nhập cho nhà nước.

          "Trong việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, triều đình Nguyễn đặc biệt chú ý đến Nam Bộ. Đó là vì nơi đây còn nhiều đất hoang có thể khai phá để trồng trọt. Từ 1802 đến 1855, triều Nguyễn đã liên tiếp ban hành 25 quyết định về khai hoang trong đó có 16 quyết định áp dụng ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành và 6 đối với toàn quốc"1.

          Để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, triều Nguyễn đã dùng nhiều biện pháp khác nhau. Bên cạnh khuyến khích nhân dân tự do khẩn hoang, lập làng mới, các vua Nguyễn còn cắt cử quan lại đứng ra tổ chức cho dân chúng, binh lính, tù phạm khai hoang qua hình thức đồn điền.

          Đồn điền là hình thức khai hoang kết hợp kinh tế với quốc phòng. Địa điểm lập đồn điền thoả mãn hai điều kiện: nơi xung yếu về quân sự và có tiềm năng đất đai để khai hoang. Cụ thể là do yêu cầu về phát triển sản xuất và yêu cầu về chính trị, quân sự ở vùng biên giới trong đối nội và cả đối ngoại. Trong đó yêu cầu về kinh tế là nhân tố lâu dài và cơ bản nhất.

           Ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đã cho lập đồn điền ở cả bốn phủ thuộc Gia Định thành: phủ Tân Bình (tức trấn Phiên An), phủ Phước Long (tức trấn Biên Hoà), phủ Định Viễn (tức trấn Vĩnh Thanh), phủ Kiến An (tức trấn Định Tường), có nghĩa là trên toàn vùng Đồng Nai – Gia Định. Sang triều Minh Mạng, đồn điền còn phát triển hơn triều Gia Long, và được lập ở nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng biên giới như Hà Tiên, Trấn Tây Thành, hải đảo Côn Lôn. Dưới triều Thiệu Trị không biết vì lẽ gì việc lập đồn điền bị đình chỉ, nhưng sang triều Tự Đức, việc lập đồn điền lại được chú trọng. Nguyễn tri Phương được giao nhiệm vụ mộ dân lập đồn điền và chỉ trong một thời gian rất ngắn (khoảng 1 năm), 25 cơ đồn điền, mỗi cơ khoảng trên 300 người, được lập lên trên toàn lãnh thổ Nam Bộ.

Điểm khác biệt của các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới thời Nguyễn so với các triều đại khác là gì

                               Bản đồ Nam Kỳ lục tỉnh triều Nguyễn

          Bên cạnh việc khuyến khích khẩn hoang lập làng mới, lập đồn điền, tổ chức sản xuất, các vua Nguyễn cũng đã chú ý đến việc tổ chức quản lí ruộng đất nhằm tăng cường hiệu lực quản lí của nhà nước, trong đó có đồn điền ở Nam Bộ. Vì thế, năm 1836 Minh Mạng thực hiện một số quyết định lớn: đo lại toàn bộ ruộng đất Nam Kì và lập sổ địa bạ các làng xã ở đây. Kế hoạch được triển khai nhanh và đạt kết quả rất tốt. Điều đáng chú ý trong địa bạ Nam Kì (1836) là ngoài những thông tin chủ yếu về tình hình ruộng đất, còn có cước chú thêm nguồn gốc các loại ruộng đất. Như, ở mục tư điền, tư thổ địa bạ không chỉ ghi tên chủ sở hữu mà còn ghi rõ tên chủ sở hữu trước đó. Hay ở mục công điền, công thổ; công thổ viên địa bạ cho biết thêm một số trường hợp nguyên trước là thuộc sở hữu tư nhân nhưng do chủ sở hữu ruộng đất đã chết mà không có người thừa tự nên trở thành ruộng đất công. Ngoài ra sự thay đổi loại hình ruộng đất (ruộng thành đất, đất thành ruộng, từ trồng lúa sang trồng màu…) cũng được ghi chú rõ ràng1.

          Nhìn lại hơn nửa thế kỉ thực hiện chế độ đồn điền của nhà Nguyễn ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XIX đã mang lại những kết quả tích cực trên nhiều mặt, thoả mãn được nhiều mục tiêu mà các vua đầu triều Nguyễn mong muốn thực hiện:  Nam Kì đất rộng, người thưa và là khu vực chủ yếu để phát triển chế độ đồn điền. Điều này có 4 điều lợi: Mở rộng diện tích canh tác ruộng đất, khai phá đất hoang, tăng sản lượng lương thực; tăng thêm thu nhập của nhà nước; đảm bảo quyền thống trị của nhà nước trên vùng đất mới đồng thời đảm bảo việc trị an ở địa phương; giải quyết một phần quân lương vùng biên giới và lương thực cho tù phạm.

          Mặt khác, thực hiện chế độ đồn điền ở thời kì này còn cho phép nhà Nguyễn giải quyết được những vấn đề bức xúc của xã hội như vấn đề dân nghèo không ruộng đất, phiêu tán, góp phần giảm bớt những mâu thuẫn xã hội vốn đã gay gắt từ các thế kỉ trước. Ưu điểm của chính sách này là có thể huy động được đủ mọi loại người, dù không có một tấc sắt trong tay, đều có thể lập nghiệp được. Nhà nước sẽ cấp, hay nói đúng hơn, cho vay hoặc cho thuê trước các loại trâu bò nông cụ, lúa giống và các phương tiện khác. Như thế những người không có đất trở thành có đất, ruộng đồng trong nước phát triển về số lượng và khoản thuế thu cho triều đình tăng tiến không ngừng. Qua công cuộc tổ chức và khuyến khích khẩn hoang, rõ ràng triều Nguyễn có sự quan tâm nhất định đến việc phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp thông qua chính sách đẩy mạnh khẩn hoang chứ không phải là ngược lại như một số nhà sử học trước đây đã nói1.

          Các vua Nguyễn đã biết lựa chọn và tổ chức các hình thức khẩn hoang phù hợp với vùng đất mới, với điều kiện địa lí tự nhiên và lịch sử xã hội của vùng đất này, trong đó hình thức khẩn hoang lập đồn điền đóng vai trò quan trọng. Bởi vì, mặc dù đã được khai phá từ mấy thế kỉ trước nhưng đến đầu thế kỉ XIX vùng đất Đồng Nai – Gia Định vẫn còn một diện tích đáng kể chưa được khai phá. Đó là những vùng đất hoang hoá, sình lầy, lau sậy, đất nhiễm mặn, vùng đất biên giới hẻo lánh… Việc lựa chọn và tổ chức hình thức khẩn hoang lập đồn điền cho phép các vua Nguyễn chủ động đẩy nhanh công cuộc khai phá, khi có trong tay lực lượng binh lính, tù binh, phạm nhân, kể cả dân lưu tán; đồng thời qua đó nhanh chóng thiết lập bộ máy hành chính, xác lập chủ quyền quốc gia lãnh thổ đối với vùng đất mới khai phá, vùng biên giới. Như vậy nhà Nguyễn trên thực tế đã từng bước hoàn tất và củng cố nền thống nhất quốc gia.

          Chế độ đồn điền cũng góp phần giải quyết những vấn đề xã hội của Nam Bộ ở nửa đầu thế kỉ XIX: “Dân Gia Định phần nhiều là dân giang hồ trú ngụ, đặt ra đồn điền là để dồn bọn du thủ cho nương tựa vào đồng ruộng”. Đồn điền còn là hạt nhân quy tụ ban đầu để dân chúng đi đến một địa phương để khai phá, sản xuất, thiết lập xóm ấp. Đúng như lời Nguyễn Tri Phương nói lúc bấy giờ: “Đất Nam Kì dân xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về đốc việc khai khẩn để nuôi dân ăn, thật là một cách quan yếu để giữ giặc và an dân”.

          Việc thực hiện chế độ đồn điền ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX là góp phần quan trọng vào việc củng cố và phát triển quyền sở hữu nhà Nguyễn về ruộng đất. Việc chủ trương khôi phục, củng cố và mở rộng ruộng đất công các khu vực quản lí trực tiếp của nhà nước trước tình hình ruộng đất công ngày càng bị thu hẹp là một chủ trương đúng của các vua đầu triều Nguyễn. Bởi vì, sở hữu nhà nước là cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc đảm bảo cho ổn định và tồn tại của chế độ.

          Qua việc thực hiện chế độ đồn điền và chính sách khai hoang, phục hoá đã mở rộng tối đa diện tích đất đai để sản xuất nông nghiệp và tăng nguồn sản phẩm nông nghiệp đáng kể cho nhà Nguyễn trong những thập kỉ đầu xây dựng triều đại, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định trật tự xã hội.

          Chế độ đồn điền thực chất là một biện pháp cai trị đô hộ cuả triều Nguyễn ở Nam Bộ trên hai lĩnh vực lớn là đất đai và con người; tạo cơ sở vững chắc cho nhà Nguyễn duy trì được trị an, tăng cường khả năng quản lí đất nước rộng lớn và tăng thêm sức mạnh để giải quyết các vấn đề quốc phòng, biên giới; giảm thiểu một phần lớn việc cung cấp gạo, tiền cho quân đội và lương thực để nuôi tù phạm.

          Bên cạnh mặt tích cực của chế độ đồn điền thời Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX ở Nam Bộ là chính, chế độ đồn điền cũng có những mặt hạn chế làm bộc lộ bản chất của nhà nước quân chủ chuyên chế phong kiến Nguyễn.

          Quan hệ sản xuất trong các đồn điền là quan hệ bóc lột địa chủ - tá điền theo hình thức phát canh thu tô, địa chủ ở đây là nhà nước Nguyễn.

          Thực chất của chế độ đồn điền là việc thực hiện và bảo vệ chế độ sở hữu của nhà nước phong kiến Nguyễn về ruộng đất. Chính sách phát triển đồn điền hoàn toàn phù hợp với đường lối ruộng đất của triều Nguyễn, đường lối phát triển các hình thức sở hữu nhà nước về ruộng đất làm cơ sở cho chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế.

          Chế độ thu nộp sản phẩm trong các đồn điền, trong từng triều vua Nguyễn có chú ý cải tiến giảm nhẹ nhưng nhìn chung vẫn còn nặng nề, không hợp lí, đóng góp của lực lượng sản xuất trong đồn điền cao gấp đôi so với người dân sản xuất trong xóm ấp. Binh điền và dân điền cũng có sự khác nhau trong nghĩa vụ giao nộp sản phẩm làm ra.

          Việc quân sự hoá chế độ đồn điền làm hạn chế tính tự giác, tinh thần tự do lao động chính trên mảnh đất do họ khai phá nên do đó đã có bộ phận dân đồn điền bỏ trốn và bị nhà nước truy nã, bắt phạt làm những công việc nặng nhọc vất vả hơn...

          Tóm lại, mặc dù tồn tại một số hạn chế nhất định nhưng chế độ đồn điền được các vua đầu triều Nguyễn thực hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX mang nhiều ý nghĩa tiến bộ, tích cực, hiệu quả mang lại nguồn lợi to lớn ở trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị - quân sự.

1  Vũ Huy Phúc: Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, NXB Khoa học Xã hội, 1979, tr. 128.

1  Xem thêm Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (CB): Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hoá, Huế, 1997, tr. 5- 27.

1  Xem thêm: Hoàng Văn Lân, Ngô Thị Chính: Lịch sử Việt Nam (1858 - cuối thế kỉ XIX), NXB Giáo dục, HN, 1976, Q.3, Phần I, tr. 11 – 14. Lịch sử Việt Nam - Tập II của UBKHXHVN, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 24 – 26.