Công dân có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước là một nội dung của dân chủ trong lĩnh vực

Thứ nhất, ngay Lời nói đầu Hiến pháp 2013 thể hiện: "...Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" đã thể hiện rõ trách nhiệm của nhân dân trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" đã thể nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao quyền làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đồng thời thể hiện đất nước Việt Nam là do chính nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ thể quan trọng trong xây dựng và bảo đất nước. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 từ Nhân dân được viết hoa, đây không phải đơn thuần là cách thể hiện từ ngữ mà là diễn đạt ý nghĩa của một chủ thể quan trọng của đất nước theo tư tưởng của Bác hồ. Người viết:

“Nước ta là nước dân chủ,

Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân,

Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân,

Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra,

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên,

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.      

Chính vì lẽ đó mà từ Nhân dân được viết hoa là thể hiện đầy đủ và sâu sắc tư tưởng của Bác hồ về vai trò của Nhân dân.

Thứ hai, khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định:" Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình", đây là điểm bổ sung mới quan trọng, vì vai trò làm chủ của Nhân dân đối với nước, Nhân dân giao phó trách nhiệm cho Đảng để lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vì vậy, Đảng phải chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân trong việc lãnh đạo của mình.

Thứ ba, Tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước", quy định đa dang hơn về thực hiện quyền lực của Nhân dân so với Hiến pháp năm 1992, đặc biệt thể hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò làm chủ của Nhân dân.

Thứ tư, lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 2003 ghi nhận quyền con người, quyền cơ bản của công dân tại chương II, đặt trang trọng chương I quy định về chế độ chính trị. Hiến pháp năm 2013 đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa-xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Đây là những nguyên tắc căn bản đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân, là cơ sở hiến định để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài việc thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong Hiến pháp, còn thể hiện các cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các Điều ước quốc tế liên quan đến quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Thứ năm, Điều 53 Hiến pháp năm 2013 thể hiện: "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý" đã khẳng định quyền sở hữu của Nhân dân và Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước đại diện Nhân dân để sở hữu và thống nhất quản lý, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về việc quản lý tài sản do Nhân dân ủy quyền.

Thứ sáu, Điều 65 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế" thể hiện trách nhiệm của lực lượng vũ trang là tuyệt đối trung thành với Nhân dân và trước hết là phải bảo vệ Nhân dân là một chủ thể làm chủ đất nước, sau đó là bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ bảy: Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã nhấn mạnh vai trò của Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực cao nhất cho Quốc hội để thực hiện quyền lập hiến như đề xuất sửa đổi Hiến pháp, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, thảo luận và biểu quyết thông qua Hiến pháp, khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định...

Quốc hội có trách nhiệm quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập và bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh đứng đầu các cơ quan này nhằm đảm bảo sự vận hành và thực thi hoạt động quản lý nhà nước và quản lý xã hội theo theo sự ủy quyền của Nhân dân cho Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.

Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện nhất quán tư tưởng của Bác hồ, của Đảng về vị trí, vai trò của Nhân dân trong lịch sử đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước trải qua mấy ngàn năm lịch sử. Tư tưởng lấy dân làm gốc của Bác hồ đã được lịch sử chứng minh qua các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 là sự kết tinh và thể hiện tính đúng đắn về quyền làm chủ của Nhân dân đối với đất nước, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã lựa chọn./.

Quan điểm về dân chủ và quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập hết sức đầy đủ và sâu sắc. Nhà nước không phải là nơi chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc quốc gia. Nhà nước của ta không chỉ đại diện cho quyền lực và lợi ích của nhân dân mà còn là một cơ quan quản lý đời sống kinh tế - xã hội của đất nước nhằm hưởng mọi quyền lực, tiềm năng của đất nước nhằm mục đích xây dựng một xã hội giàu mạnh, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân. Vì vậy, Người luôn đề cao vấn đề dân chủ trong xây dựng nhà nước và phê phán thăng quan phát tài, tư tưởng muốn dùng bộ máy nhà nước, dùng quyền lực để ức hiếp quần chúng nhân dân. Người từng nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ từ Trung ương đến khu, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Do đó, làm lãnh đạo phải dân chủ, thiết thực, cụ thể và toàn diện”[1]

Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.… Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết,dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. “Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”[2].

Trong quá trình phát huy dân chủ, để nhân dân thực sự thực hiện quyền lực và quyền làm chủ đất nước của mình, cần nắm vững bản chất và nội dung của vấn đề dân chủ. Dân chủ nước ta là dân chủ xã hội chủ nghĩa, là nền dân chủ của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân với đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ; dân chủ được cụ thể hóa thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch với giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Quan điểm về thực hiện dân chủ trong xây dựng nhà nước pháp quyền có ý nghĩa quan trọng trong tình hình nước ta hiện nay, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”[3].

Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tin gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương hướng và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.”[4]

Như vậy, nhà nước không chỉ đại diện cho nhân dân, thực hiện ý chí và nguyện vọng của quảng đại quần chúng, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt vấn đề dân chủ mà nhà nước còn chịu sự kiểm soát thường xuyên của nhân dân. Đảng và Nhà nước cần khơi dậy tính tích cực chính trị của quần chúng nhân dân, có cơ chế để họ tham gia các công việc của nhà nước như là công việc của chính mình. Quần chúng nhân dân tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, đồng thời đấu tranh với những cơ quan nhà nước và các cá nhân có hành vi vi phạm quyền làm chủ của họ như tinh thần Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định “Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”[5].

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ, Đảng ta đúc kết thành cơ chế quản lý điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Cơ chế đó đã tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ cũng như quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân bởi đây là nền tư tưởng, lý luận có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời nhận thức đúng, vận động sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho họat động cách mạng”. Nhiệm vụ trọng tâm của nước ta là phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời với việc đổi mới trong lĩnh vự kinh tế, Đảng ta rất coi trọng và kiện toàn hệ thống chính trị, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân, là công bộc của dân, có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. “Đề cao trách nhiệm của các tổ chức cơ sở đảng, Nhà nước đối với nhân dân. Bộ máy nhà nước, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng”. Do đó những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, những bộ luật, luật quan trọng của nhà nước đều đưa ra lấy ý kiến của nhân dân để bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh trước khi ban hành. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”. Đối với Đảng, chúng ta cần tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh. Đối với Nhà nước, chúng ta kiện toàn một bước các cơ quan quyền lực theo hướng mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật. Để kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Như vậy, vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của nhà nước và chính quyền các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở để nhân dân trực tiếp bàn bạc và quyết định những công việc thiết thực, gắn với lợi ích của mình.

Cho đến nay, Quy chế dân chủ cơ sở trong cơ quan, đơn vị, Pháp lệnh dân chủ xã, phường, thị trấn đã được tổ chức thực hiện rộng rãi. Những nơi làm tốt đã nâng cao ý thức làm chủ và trách nhiệm người làm chủ của nhân dân trước hết là ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng “Nông thôn mới”, ở cơ quan, đơn vị trong xây dựng “Cơ quan văn hóa” tạo nên một động lực mới trong mọi mặt công tác ở cơ sở. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã một lần nữa khẳng định “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện qua mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân”.

Nhìn chung, việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã có sự tiến bộ đáng kể qua 30 năm đổi mới nhưng cũng có nhiều hạn chế, thậm chí có những vấn đề bức xúc, đòi hỏi cần có những chủ trương, biện pháp hữu hiệu mới giải quyết được. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa khắc phục được những hiện tượng tiêu cực trái dân chủ mà Đại hội XI của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra “Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ, công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hóa biến chất. Dân chủ nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm” và Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỹ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực vẫn còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”[6]. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, nhất là các cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu kém.

Trong thời gian qua, không ít cán bộ, công chức nhà nước có chức, có quyền đã quên quyền lực mà nhân dân giao phó cho họ là để phục vụ nhân dân. Họ lại dùng quyền lực đó để mưu cầu lợi ích cá nhân cho mình và cho gia đình mình, vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân. “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi…”[7]

Tệ quan liêu, thói vô trách nhiệm còn thể hiện ở việc giải quyết các đơn khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Khi nhận được các đơn khiếu nại, tố cáo của nhân dân, số người này tỏ thái độ thờ ơ, lãnh đạm, không chịu trách nhiệm giải quyết theo đúng thẩm quyền mà đùn đẩy nhau cho cấp trên, cấp dưới, cơ quan này, cơ quan khác. Kết quả là không có cơ quan nào chịu trách nhiệm giải quyết, buộc nhân dân phải khiếu kiện vượt cấp lên các cơ quan Trung ương gây nhiều khó khăn, phiền toái, lãng phí thời gian, tiền bạc và sức khỏe của nhân dân dẫn đến tạo nên những “điểm nóng” gây mất an ninh trật tự xã hội. Đây là những người không phải là “công bộc” của nhân dân mà là những ông “quan cách mạng” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phê phán. Mặt khác, cần phải chống lại những luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp bóng dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa,.

Để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định, chúng ta cần phải giải quyết tốt một số vấn đề cơ bản sau đây:

Một là, “Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội… Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực Nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Tiếp tục phân định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và ở mỗi cấp chính quyền địa phương”[8].

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, vừa phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa giữ vững kỷ cương phép nước. Quy định rõ trách nhiệm của nhà nước đối với công dân và nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước, xã hội. Tổ chức thực hiện hiệu quả Luật trưng cầu ý dân để nhân dân tham gia giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước, xây dựng và thông qua Luật biểu tình, Luật về tổ chức và hoạt động của Đảng, hoàn thiện pháp luật về dân chủ - nhất là xây dựng Luật dân chủ - đáp ứng tốt hơn yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước một cách hữu hiệu, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả họat động của cơ quan dân cử, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân.”[9] 

Ba là, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở để Mặt trận, các đoàn thể và tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Về phần mình, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các hội quần chúng cần đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng hoạt động, khắc phục cho được tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức, làm tốt công tác dân vận theo phong cách gần dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

Đưa Quy chế dân chủ vào cơ quan, đơn vị, Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn thành luật để tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn, có sức mạnh hơn, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở. Phải xây dựng một quy chế khả thi để nhân dân thực hiện được quyền kiểm tra, giám sát của mình một cách hữu hiệu. Thực tiễn đã chỉ rõ chừng nào, khi nào chưa tạo được đủ điều kiện để nhân dân thực hiện được quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực nhà nước ở địa phương suy giảm cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Bốn là, mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải vì dân, chính quyền từ Trung ương đến địa phương phải thực sự gương mẫu, thực sự trong sạch vững mạnh. Cán bộ phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Lựa chọn những người có đức, có tài để bố trí vào công việc lãnh đạo nhà nước. “Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng têu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sang, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan hành chính…”[10]. Bởi lẽ, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại, dân chủ có được  phát huy thực sự hay không đều là do đội ngũ cán bộ quyết định. Vì vậy, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ là khâu quan trọng để hoàn thiện bộ máy nhà nước và góp phần tối đa nhất thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là: “Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hường khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài”[11].

Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tới, phải dành nhiều công sức tạo được sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Thực tiễn cuộc sống đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là điều kiện bảo đảm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhân dân đã lựa chọn.

Vì vậy, để nhân dân thực sự phát huy được quyền làm chủ của mình thì vấn đề cốt lõi hiện nay là phải ra sức xây dựng, củng cố hệ thống chính trị một cách đồng bộ, đặc biệt là đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị xã hội, xây dựng, kiện toàn bộ máy Nhà nước vững mạnh, trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao.

Tóm lại, dưới chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta, nhân dân là người làm chủ nước nhà, được hưởng mọi quyền dân chủ. Để bảo vệ đất nước, giữ gìn dân chủ, chính quyền nhân dân phải dùng pháp luật của nhân dân làm công cụ để quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Chính vì vậy, vấn đề dân chủ trong xây dựng nhà nước pháp quyền đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quán triệt để xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

ThS. Nguyễn Thị Trà Giang - Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật

[1] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nxb. CTQG, Hà Nội 1989, tr. 19.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, Hà Nội 2016, tr. 38-39

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội 2001, tr. 131

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, Hà Nội 2016, tr.39

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề