Chính sách dân số ảnh hưởng đến mức sinh

Chính sách dân số ảnh hưởng đến mức sinh

Nguồn: Tổng cục Dân số - kế hoạch hóa gia đình - Đồ họa: L.T.

Sau nhiều năm thực hiện kế hoạch hóa gia đình, với khẩu hiệu "mỗi gia đình chỉ nên có từ 1-2 con", quyết định 588/QĐ-TTg của Thủ tướng mở ra câu chuyện mới: khuyến khích các gia đình ở vùng có mức sinh thấp sinh đủ 2 con, các bạn trẻ lập gia đình trước tuổi 30.

Dân số Việt Nam trên 96 triệu người, việc khuyến khích sinh thêm khi tỉ suất sinh vẫn ở mức trên 2 con/bà mẹ tác động đến chất lượng dân số, chất lượng lao động ra sao... Ông Nguyễn Văn Tân, nguyên phó tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - kế hoạch hóa gia đình, nói với TTCT:

- Việt Nam đang đứng giữa hai lựa chọn, thực hiện hay không đều có điểm chưa hoàn hảo. Dân số Việt Nam đã đông, mật độ dân số cao, trên 300 người/km2 là mức cao trên thế giới, nhiều năm qua đã hạn chế sinh để mật độ này không cao hơn. Nhưng về lâu dài, nếu xu hướng giảm sinh ở Đông Nam Bộ (có TP.HCM) và Tây Nam Bộ tiếp tục lan rộng sẽ là vấn đề đáng quan ngại. 

Nếu xét về tình hình chung, đô thị hóa đang diễn ra nhanh, lối sống coi trọng tự do cá nhân, sự nghiệp sẽ vẫn kéo mức sinh xuống, việc đưa mức sinh lên lại là rất khó khăn, và về dài hạn sẽ tác động đến số lượng nhân lực, làm tốc độ già hóa dân số diễn ra nhanh hơn.

* Những năm qua Việt Nam đã có chính sách điều chỉnh để cải thiện mức sinh, ông thấy những chính sách đó có hiệu quả hay không?

- Trước đây gần như 100% phương tiện tránh thai được cấp phát miễn phí, khoảng năm 2012 đã có chính sách giảm cung cấp miễn phí phương tiện tránh thai và sau này chỉ người nghèo, người sống ở vùng dân tộc thiểu số, người sống ở vùng có mức sinh cao mới được cung cấp miễn phí. Như vậy là người được cấp phương tiện tránh thai giảm phân nửa. 

Năm 2013 đã có quy định giảm mức kỷ luật đối với đảng viên sinh từ con thứ 3. Trước đây đảng viên sinh con thứ 3 bị cảnh cáo, sinh con thứ 4 bị khai trừ, thì từ sau năm 2013 sinh con thứ 3 chỉ bị khiển trách, sinh con thứ 4 bị cảnh cáo. Đây là hai chính sách rõ ràng nhất có tác động nhất định giúp duy trì mức sinh thay thế, còn nếu làm gắt như trước thì không đạt đâu.

Trong khi đó ở những vùng có mức sinh thấp thì dù có khuyến khích tỉ suất sinh vẫn giảm như Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.

* Quyết định 588 của Thủ tướng có một số điểm mới, hỗ trợ các gia đình ở vùng có mức sinh thấp mua nhà ở xã hội, tiền học phí, khuyến khích kết hôn trước tuổi 30... Theo ông, những quy định này có giúp duy trì thời kỳ dân số vàng, tức số người lao động cao hơn số người phụ thuộc hay không?

- Cơ cấu dân số vàng sẽ kết thúc vào giai đoạn 2037 - 2041 chứ không thể kéo dài mãi. Duy trì mức sinh thay thế không giúp kéo dài cơ cấu dân số vàng, nhưng sẽ giúp tác động để già hóa dân số chậm lại, duy trì số lượng nhân lực đến 2060 - 2070. 

Nếu tiếp tục tăng sinh thì sẽ vấp phải vấn đề mật độ dân số tăng cao, nghĩa là mức sinh tăng lên ở nước ta có cả ưu và nhược điểm. Vì thế Chính phủ lựa chọn phương án phù hợp, tăng sinh ở những vùng có mức sinh thấp chứ không đợi sau này khi mức sinh đã xuống rất thấp rồi mới can thiệp, "nước đến chân mới nhảy".

* Một vấn đề được quan tâm nhiều là chất lượng dân số. Có phải những năm qua chúng ta chú trọng nhiều đến giảm sinh mà chưa chú ý cải thiện chất lượng dân số, chất lượng lao động?

- Về chất lượng dân số, tôi thấy có những can thiệp và đã có cải thiện, nhưng chưa được như mong muốn. Cụ thể về chỉ số phát triển con người thì có tăng nhưng năm 2019 ở mức 116/189 quốc gia có xếp hạng, vẫn ở mức trung bình. 

Tới đây, các biện pháp tập trung phải hướng đến cải thiện thêm về thể lực và chất lượng giáo dục, đặc biệt về chất lượng đào tạo bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề, đó là những bậc đào tạo tác động đến thị trường nhân lực. Mình quan tâm đến bậc học phổ thông, nhưng thực ra so với các nước tôi cho là mình kém xa về dạy nghề và giáo dục bậc cao.

* Đã có những vấn đề mới nảy sinh trong vấn đề dân số, như vấn đề mẹ đơn thân, con sinh ra trong các gia đình cha mẹ đồng tính... Chính sách nên có những hỗ trợ nhất định đối với các gia đình này?

- Về mặt pháp lý hiện có gì phân biệt con sinh ra ở gia đình nào đâu và pháp luật cũng thừa nhận. Có vấn đề gì đó là do những chuyển biến chưa đầy đủ ở mặt nhận thức xã hội. Nhưng theo tôi, không ngăn cản nhưng cũng không nên khuyến khích cách làm trên. 

Do nam nữ chưa bình đẳng một cách đầy đủ, có những phụ nữ muốn sinh con nhưng không lập gia đình, đây là lựa chọn và quyền của cá nhân. Tuy nhiên nếu gia đình đầy đủ cha mẹ thì sự phát triển của trẻ vẫn tốt hơn.

* Trong những năm qua, theo ông, đâu là lý do khiến tỉ lệ sinh ở các thành phố lớn như TP.HCM, các tỉnh Đông Nam Bộ khác lại giảm mạnh? Những chính sách hỗ trợ trong quyết định 588 của Thủ tướng liệu có cải thiện vấn đề này?

- Một trong những vấn đề tác động đến mức sinh ở vùng này là chi phí nuôi dạy con cao, từ tiền bạc, thời gian, sức lực... Muốn nâng mức sinh phải có giải pháp, trong đó thiết thực nhất là giảm áp lực chi phí cho các gia đình, như hỗ trợ để các gia đình có thể gửi con ở trường học có chất lượng mà chi phí chịu đựng được, có trường học phù hợp, học phí phải chăng... 

Vấn đề hiện nay là triển khai quyết định 588 của Thủ tướng ra sao. Cho đến nay chưa có đánh giá về tổng chi phí nuôi dạy một đứa trẻ ở Việt Nam, vì ngoài tiền bạc còn thời gian và tốn rất nhiều công sức. 

Theo ông Nguyễn Doãn Tú, tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), mức sinh thấp dễ dẫn đến những hệ lụy. "Hàn Quốc có tổng tỉ suất sinh có 0,96 năm 2019, tức là bình quân một bà mẹ trong độ tuổi sinh đẻ sinh chưa đến 1 con. Nếu mức sinh này tiếp tục kéo dài và không có gì thay đổi đột biến, dân số Hàn Quốc từ 50 triệu hiện nay sẽ giảm còn 40 triệu vào năm 2050 và đến cuối thế kỷ này chỉ còn 18 triệu người. Việt Nam thực hiện các biện pháp khuyến sinh ở khu vực có mức sinh thấp tại thời điểm này đã là muộn" - ông Tú nói.

LAN ANH thực hiện

Theo dự báo của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (năm 1990), nếu Việt Nam không có các giải pháp triệt để trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGD) thì số dân của Việt Nam sẽ đạt mức 121 triệu người vào năm 2017. Trước con số do Liên hợp quốc đưa ra, Việt Nam đã triển khai rất nhiều giải pháp nhằm đưa mức sinh về mức cân bằng (2,1 con/người mẹ). Theo cách tính toán của các nhà khoa học với tỷ suất sinh này, Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế và kết quả kéo dài hơn mười năm cho đến nay; giữ vững được quy mô và cơ cấu dân số ổn định.

Nhiều ý kiến cho rằng, sau hơn 10 năm thực hiện thành công mức sinh thay thế, Việt Nam không cần tiếp tục kiểm soát tỷ lệ mức sinh. Tuy nhiên, trên thực tế con số hiện nay về mức sinh trên cả nước còn có nhiều khác biệt, không đồng đều cả về số lượng và chất lượng. Theo thống kê Tổng điều tra dân số và nhà ở T.Ư năm 2019, vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp hơn so mức sinh thay thế (dưới 1,6 con), riêng một số tỉnh, thành phố cũng đang trong tình trạng mức sinh rất thấp như: TP Hồ Chí Minh (1,36 con), Đồng Tháp (1,34 con), Bà Rịa - Vũng Tàu (1,37 con), Hậu Giang (1,53 con)... Khu vực trung du và miền núi phía bắc, Tây Nguyên là các vùng có mức sinh cao nhất cả nước, với tổng tỷ suất sinh mỗi vùng là 2,34 con/phụ nữ. Ngoài ra mức sinh của khu vực nông thôn (2,26 con/phụ nữ) cao hơn khu vực thành thị (1,83 con/phụ nữ) và cao hơn mức sinh thay thế.

"Bức tranh" mức sinh của Việt Nam là những mảng màu có sự chênh lệch khá lớn. Có vùng, có tỉnh mức sinh cao, thậm chí rất cao dẫn đến con đường giảm sinh rất gian nan. Nhưng ngược lại, có những vùng mức sinh thấp và tiếp tục có xu hướng giảm như là một trào lưu. Gia tăng dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đầu tư cho an sinh xã hội, khó cải thiện đời sống nhân dân, hạn chế điều kiện phát triển văn hóa, thể lực của giống nòi. Nhưng nếu để mức sinh quá thấp và duy trì trong một thời gian dài sẽ dẫn đến ít trẻ em được sinh ra, dân số già hóa nhanh..., sẽ gây suy giảm dân số, thiếu hụt nguồn lực lao động nghiêm trọng làm suy giảm tăng trưởng kinh tế - xã hội. Nói chung, mức sinh tăng hay thấp đều ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Do đó, nhiệm vụ đặt ra là cần duy trì mức sinh thay thế, giữ vững mức sinh đồng đều giữa các vùng, khu vực và không để mức sinh xuống thấp; nhất là ở các tỉnh, thành phố đang có mức sinh thấp.

Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, điều chỉnh mức sinh hợp lý mang ý nghĩa sống còn không chỉ với chính sách dân số mà với các chính sách quốc gia, bởi con người là động lực, là mục tiêu của sự phát triển trong xã hội hiện đại. Sự bất ổn về cơ cấu, quy mô dân số sẽ gây hệ lụy, ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Một Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, nhưng cũng đã bước vào thời kỳ già hóa dân số, sự tận dụng cơ cấu dân số vàng chưa được triệt để đã phải đón nhận một quốc gia nhiều người già... sẽ gây ra nhiều hệ lụy lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu phát triển đất nước. Vì vậy, điều chỉnh mức sinh hợp lý là giải pháp quan trọng nhất.

Để giải quyết tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng, miền, bảo đảm giữ vững mức sinh thay thế hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 588/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030". Quyết định đã đưa ra mục tiêu cụ thể: tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp; giảm 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế. Như vậy, đối với địa phương có mức sinh cao, cần tiếp tục áp dụng và nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích cộng đồng không có người sinh con thứ ba trở lên; hỗ trợ người dân thực hiện các dịch vụ KHHGĐ. Đối với địa phương đã đạt mức sinh thay thế và có mức sinh thấp, trước mắt cần rà soát, bãi bỏ các chính sách khuyến khích sinh con ít. Từng bước ban hành, thực hiện chính sách khuyến khích sinh đủ hai con áp dụng cho các gia đình, cộng đồng... Quyết định cũng đưa ra các yêu cầu nhiệm vụ, hoạt động cần ưu tiên thực hiện đến mục tiêu giảm sinh, tiêu chí giảm sinh con thứ ba trở lên; sửa đổi, bổ sung các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con. Giao chính quyền các địa phương nghiên cứu, ban hành hỗ trợ, tư vấn, cung cấp dịch vụ hôn nhân và gia đình cho các cặp vợ chồng sinh đủ hai con...

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm mức sinh hợp lý giữa các vùng, miền để trong tương lai, Việt Nam sẽ có được một quy mô dân số phù hợp diện tích lãnh thổ, bảo đảm cân đối, hài hòa giữa các độ tuổi. Việc duy trì tương đối ổn định tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động sẽ kéo dài cơ cấu "dân số vàng"; làm chậm lại thời gian chuyển đổi sang giai đoạn "già hóa dân số", cải thiện chất lượng dân số, góp phần vào sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước...