Bài giỗ tổ sách tiếng việt 1 tập 2 năm 2024
Lời giải bài tập Tiếng Việt lớp 1 Tập 2 Dành cho buổi học thứ hai hay nhất, chi tiết sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập Tiếng Việt lớp 1 Buổi học thứ hai Tập 2 từ đó học tốt môn Tiếng Việt lớp 1. Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài Giải bài tập Tiếng Việt lớp 1 (Dành cho buổi học thứ hai) được biên soạn bám sát nội dung sách Bài tập Tiếng Việt lớp 1 Tập 1, Tập 2 (Dành cho buổi học thứ hai) bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống (NXB Giáo dục). Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Tiếng Việt lớp 1 tập một học sinh làm quen với âm vần chỉ có tròn, vuông, tam giác; còn tập hai tập trung rèn kỹ năng về âm vần, tập đọc bằng đoạn văn ngắn, nhưng sử dụng quá nhiều tiếng địa phương, sai cả về thông tin.: Phần đầu sách Tiếng Việt lớp 1 tập một, học sinh làm quen với các âm vần chỉ có tròn, vuông, tam giác?". Một cô giáo có nhiều năm dạy sách cho biết, nếu để học sinh và phụ huynh tự học thì không thể hiểu được, buộc phải có sách hướng dẫn của giáo viên. Nội dung cuốn sách có quá nhiều từ ngữ địa phương cùng lúc mà không giải thích nghĩa của từ như “má, mẹ, mế, mạ…". Túy lúy/xúy xóa được cho là không có trong từ điển Tiếng Việt phổ thông. Trong đoạn trên theo một giáo viên, ghe ngo không có trong từ điển Tiếng Việt phổ thông. Trang 29 sách Tiếng Việt tập 1 có viết: Bé kể cà kê. Bà kể cà kê. Bà để bé kể, bà chả chê bé. -16564377.png) Những từ mang tính địa phương, không có trong Tiếng Việt phổ thông như chú ỉ ở trang 69. -16561220.png) Cùng nói về con gà, nhưng có lúc dùng từ "cô", lúc thì "nó" khiến học sinh khó hiểu và dễ nhầm lẫn. Bài ở trang 55. Cuốn sách Tiếng Việt lớp 1 tập hai của GS Hồ Ngọc Đại, do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam sản xuất ngày 09/3/2015. Cuốn sách chủ yếu tập trung vào đánh vần nhiều âm tiết và tập cho học sinh làm quen với các việc đọc các đoạn văn ngắn liên quan tới âm vần được học. Tuy nhiên, các chuyên gia chỉ ra trong hầu hết các bài đọc trong cuốn sách của GS Hồ Ngọc Đại đều sử dụng khá nhiều từ địa phương, từ không rõ nghĩa, tiếng lóng. Với đoạn văn ngắn này, GS Đại nói về lễ giỗ Tổ Hùng Vương, hàng vạn người dân Phú Thọ và hàng ngàn dân các làng gần mộ Tổ về dâng lễ. Điều này chưa được chính xác về mặt thực tế giỗ Tổ là người dân cả nước về dâng hương. Dân Phú Thọ và dân các làng gần mộ Tổ thực chất vẫn là một. Đoạn văn này sử dụng nhiều từ lóng, khiến học sinh lớp 1 khó hiểu như" "thỏa thuê", "lòa xòa", "chả xuể"... Đoạn văn dỗ bé, dùng những câu từ đơn giản học sinh dễ học nhưng cả đoạn đều sử dụng ngôn ngữ nói quá nhiều. Theo Hội đồng thẩm định, ngôn ngữ và cách diễn đạt trong một số bài học chưa đảm bảo yêu cầu “dễ hiểu và phù hợp với học sinh lớp 1”. Việc dùng nhiều khái niệm ngữ âm trong sách khiến cho sách trở nên nặng và quá tải với học sinh lớp 1. Câu chuyện "Cháo rìu" khó hiểu nghĩa, khiến học sinh lúng túng không hiểu vì sao lại là cháo rìu. Trong bài tập đọc "Quả bứa", việc để cách xưng hô mày- tao giữa các nhân vật là không nên cho trẻ nhỏ và quả bứa là tiếng địa phương, học sinh phổ thông cả nước không hiểu được hết. Vừa qua, Hội đồng thẩm định sách quốc gia tiếp tục có buổi đối thoại với GS.TSKH Hồ Ngọc Đại - "cha đẻ" của bộ sách Công nghệ giáo dục về việc cần chỉnh sửa một số điểm cho phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông mới (chương trình phổ thông mới). |