Vì sao cùng nói với ở chủ nhà ông hai

đặt câu bị động về lão hạc [Ngữ văn - Lớp 8]

2 trả lời

Văn tả đường đến trường [Ngữ văn - Lớp 6]

2 trả lời

Bài tập vận dụng:Bài tập 1: Tình huống truyện là gì? Vai trò của tình huống truyện trong truyệnngắn “Làng” của Kim Lân.=> Gợi ý:- Tình huống truyện là hoàn cảnh có vấn đề trong tác phẩm.Trong hoàn cảnh đó, nhân vậtsẽ có hành động bộc lộ rõ nhất, điển hình nhất bản tính của mình. Tính cách nhân vật sẽrõ, chủ đề sẽ bộc lộ trọn vẹn.- Tình huống truyện trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân là khi ông Hai biếttin làng Chợ Dầu làm Việt gian theo Tây từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.- Vai trò: Tình huống này giúp nhà văn khắc họa sâu sắc tính cách ông Hai. Là ngườinông dân ở ngôi làng thân yêu, không gì đẹp và đáng tự hào hơn ngôi làng đó. Nhưng khilàng ấy theo giặc, ta thấy có một sự thử thách với người nông dân. Giữa tình yêu làng vàlòng yêu nước, yêu cách mạng, người nông dân ấy đã lựa chọn tình yêu đất nước và cáchmạng mặc dù trong lòng đau đớn, tủi hổ. Nhờ sáng tạo được tình huống, nhà văn đã miêutả được tâm lí của nhân vật với những biến chuyển khá phức tạp. Nhờ thế, hình tượngngười nông dân với sự biến chuyển mạnh mẽ về tư tưởng, tình cảm đã được miêu tả chânthực và sinh động.Bài tập 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:Bác Thứ chưa nghe thủng câu hỏi ra sao, ông lão đã lật đật bỏ lên nhà trên:- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính.....cải chính cái tên làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra lao! Láo hết, chẳng có gìsất. Toàn là sai mục đích cả!”[ Kim Lân, Làng]a. Cùng nói với ông chủ nhà, vậy mà ông Hai vừa mới xưng “tôi” rồi ngay sau đó lạixưng “em”. Vì sao vậy?b. Nói “Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là dùng cách nói nào?c. Trong câu nói, ông Hai đã dùng sai một từ, đó là từ nào?Lẽ ra phải nói thế nào mớiđúng?=> Gợi ý:a. Cùng nói với ông chủ nhà nhưng ông Hai vừa xưng “tôi” đã lại xưng “em”, từ cáchxưng hô ngang hàng chuyển sang cách xưng hô của bề dưới với bề trên. Nhưng xưng“em” với người nói chuyện cũng là thói quen thể hiện sự tôn trọng của người nông dânViệt Nam ở làng quê trước đây. Mặt khác,thay đổi cách xưng hô như vậy cũng cho thấytâm trạng ông Hai không ổn định,ông quá vui mừng đến không làm chủ được mình, chỉthích khoe.b. Nói “Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là cách nói hoán dụ- lấy làng để chỉ nhữngngười dân Chợ Dầu.c. Trong câu nói, ông Hai dùng sai từ “mục đích”, lẽ ra phải nói “mục kích” nghĩa là nhìnthấy, chứng kiến.* Tư liệu tham khảo:Khi nói về công việc sáng tác, nhà văn Kim Lân thường thổ lộ rằng ông muốn thể hiệncon người mình qua trang viết. Có lẽ, ở trường hợp như Kim Lân, sự tự thể hiện thành ramột nhu cầu, và chính nó tạo ra hơi thở, sức sống cho tác phẩm của ông. Những gì nhàvăn chứng kiến, trải nghiệm trong những thời điểm quan trọng của lịch sử đất nước trởthành nguồn nguyên liệu trực tiếp để ông sáng tạo nên những hình tư ợng đặc sắc. Truyệnngắn “Làng”, với nhân vật ông Hai, chứng tỏ cho chúng ta về điều này. Kim Lân từngnói:"Cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã đưa vào Làng. Lúc ấy Tây cònđóng tại cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là "làng chiếnđấu". Trong không khí ấy, cùng với dư luận bán tín bán nghi về làng chợ Dầu theo Tâylàm Việt gian đã khiến tôi viết truyện ngắn này. Ông lão Hai chính là tôi".Tình yêu quê hương đất nước trong mỗi con người cụ thể mang một hình hài riêng. Cóthể là sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ ngoài mặt trận, có thể là công sức khaihoang, vun trồng những thửa ruộng, có thể là cái mượt mà hay hùng tráng của một cakhúc ca ngợi tình người, tình đời, v.v... Và ở đây là tình yêu, sự gắn bó thuỷ chung vớicái làng của mình, của một người nông dân phải rời làng đi tản cư trong những năm đầucủa cuộc kháng chiến chống Pháp.Thành công của truyện Làng chính là ở hình tượng nhân vật lão Hai với những trạnghuống tâm lí, ngôn ngữ được khắc hoạ sắc sảo, chân thực và sinh động. Tuy nhiên, đểnhân vật bộc lộ được tâm lí hay ngôn ngữ, trước hết, nhà văn phải xây dựng được tìnhhuống truyện. Tính cách nhân vật chỉ được thể hiện trong một sự việc cụ thể nào đó. Hiểulầm rồi vỡ lẽ là dạng tình huống thường được các nhà văn sử dụng. Việc rời làng đi tảncư là sự việc có ý nghĩa tạo khung cho câu chuyện. Đó chưa phải là tình huống. Phải đếnkhi ông Hai nghe tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống mới thực sựbắt đầu. Tình huống truyện kết thúc khi ông Hai biết được sự thực làng của ông khôngtheo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nông dân tha thiết yêu làng quê củamình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu tâm lí, ngôn ngữmang đậm màu sắc cá thể hoá.Sở dĩ cái tin làng chợ Dầu theo giặc làm ông Hai khổ tâm là vì nó đã động chạm đến điềuthiêng liêng, nhạy cảm nhất trong con người ông. Cái làng đối với người nông dân quantrọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời khác, ngườinông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, làhiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khốrách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thanghết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìmbảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán". Nên ông thấm thíalắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hàovề mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức,say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinhphần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi cha thấy cái dinh cơ nào mà lại đợc như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viêntổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đảđộng gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù của cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá,làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy''. Bây giờ ông khoelàng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồinhững buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,...Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khibuộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười,cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngàylàm việc cùng với anh em, "Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[...] Tronglòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đinghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Thế mà,đùng một cái ông nghe được cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càngyêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn,tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắcsảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễnbiến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.Ông lão đang náo nức, "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin khángchiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người:"Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến khôngthở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, [...] giọng lạc hẳn đi","Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão nhưvừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúcđộng: "Nhìn lũ con, tủi thân, nớc mắt ông lão cứ trào ra... Chúng nó cũng là trẻ con làngViệt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổiđầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: "Chao ôi! Cựcnhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Aingười ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thùhằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm:"Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt loâu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghenhư tiếng thở của gian nhà". Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơmnớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cáichuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi ngư ời, "không dám bướcchân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủnhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ởvào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệtđường sinh sống! [...] đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi Mà chodẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặtmũi nào đi đến đâu".Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấynữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ...". Và "Nư ớcmắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗiniềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứacon thơ dại:- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?- Là con thầy mấy lị con u.- Thế nhà con ở đâu?- Nhà ta ở làng chợ Dầu.- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:- Có.Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danhdự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với khángchiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thànhvà thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:Anh em đồng chí biết cho bố con ôngCụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờdám đơn sai.Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong ngư ời nông dân chân lấm taybùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bấtkể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vuicủa làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hếtsức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội.Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lầnnữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặtbuồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắthung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốtnhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ.Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ raông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏicái ách "người làng Việt gian". Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phíakháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như môt người yêu nước, lại có thể tiếptục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm nàycũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Mặtkhác, cũng như các nhân vật quần chúng [chị cho con bú loan tin làng chợ Dầu theo giặc,bà chủ nhà,]... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ.Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểmngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúngnó","không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vẫn", "có bao giờ dámđơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưngphấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của ngư ời nôngdân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểuhết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểmngôn ngữ này.Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trongtruyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sứckhéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sứcnặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyệncó sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nôngdân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chungvới kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ôngHai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mìnhtheo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Aiđó đã một lần thấy nhà văn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình nhưta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.

Video liên quan

Chủ Đề