Thuyết xung đột trong tội phạm học

Lý thuyết xung đột là gì? Các nội dung về lý thuyết xung đột? Sự phát triển của lý thuyết xung đột?

Trong xã hội như chúng ta thấy thì sẽ xuất hiện rất nhiều các tầng lớp khác nhau trong xã hội và theo đó các tầng lớp mày đều sẽ làm việc để tạo ra lợi ích cho mình, theo đó giũa họ sẽ xuất hiện khoảng cách giữa những người có quyền lực và địa vị với tầng lớp thấp hơn và tạo ra sự xung đột xung quanh đó. Hay theo các nhà nghiên cứu đã nói dựa trên Lý thuyết cung đột. Vậy để hiểu thêm về Lý thuyết xung đột là gì? Các nội dung về Lý thuyết xung đột.

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Lý thuyết xung đột là gì?

Lý thuyết xung đột trong tiếng Anh là Conflict Theory.

Lý thuyết xung đột được đề xuất bởi Karl Marx, cho rằng xã hội đang ở trong tình trạng xung đột liên tục vì cạnh tranh về nguồn lực hạn chế. Nó cho rằng trật tự xã hội được duy trì bởi sự thống trị và quyền lực, thay vì sự đồng thuận và phù hợp.

Theo Lý thuyết xung đột, những người có sự giàu có và quyền lực cố gắng giữ lấy nó bằng mọi cách có thể, chủ yếu bằng cách đàn áp người nghèo và sự bất lực. Một tiền đề cơ bản của Lý thuyết xung đột là các cá nhân và các nhóm trong xã hội sẽ làm việc để tối đa hóa lợi ích của chính họ.

2. Các nội dung về lý thuyết xung đột:

Lý thuyết xung đột được sử dụng để giải thích một loạt các hiện tượng xã hội, bao gồm các cuộc chiến tranh và cách mạng, sự giàu có và nghèo đói, phân biệt đối xử và bạo lực trong nước.

Nó đổ lỗi cho hầu hết sự phát triển cơ bản trong lịch sử loài người như dân chủ và dân quyền cho các nỗ lực tư bản để kiểm soát quần chúng hơn là mong muốn trật tự xã hội. Lý thuyết xoay quanh các khái niệm về bất bình đẳng xã hội trong việc phân chia tài nguyên và tập trung vào các xung đột tồn tại giữa các tầng lớp.

Nhiều loại xung đột có thể được mô tả bằng Lý thuyết xung đột. Một số nhà lí luận, bao gồm Marx, tin rằng xung đột xã hội vốn có thúc đẩy sự thay đổi và phát triển trong xã hội.

Ứng dụng Lý thuyết xung đột trong kinh tế

Ví dụ, các nhà lí luận xem mối quan hệ giữa chủ sở hữu khu nhà ở và người thuê nhà chủ yếu dựa vào sự mâu thuẫn thay vì sự cân bằng hay hài hòa, mặc dù có thể có nhiều sự hòa hợp hơn xung đột. Họ tin rằng chúng được xác định bằng cách lấy bất kì nguồn lực nào họ có từ nhau.

Xem thêm: Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Trong ví dụ trên, một số tài nguyên hạn chế có thể gây ra xung đột giữa người thuê và chủ sở hữu bao gồm không gian trong khu phức hợp, số lượng các trang thiết bị không đủ để trang trải hay số tiền mà người thuê phải trả, v.v… Chủ sở hữu khu phức hợp, tuy là một chủ nhà duyên dáng nhưng về cơ bản là họ tập trung để giành được càng nhiều căn hộ càng tốt nhằm kiếm được nhiều tiền thuê nhất có thể.

Điều này có thể khơi mào mâu thuẫn giữa các khu nhà ở, giữa những người thuê nhà đang tìm cách chuyển đến một căn hộ nào đó, v.v… Mặt khác của sự mâu thuẫn, chính những người thuê nhà đang tìm kiếm căn hộ tốt nhất có thể với số tiền thuê ít nhất.

Các nhà lí luận chỉ ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và các sự cứu trợ tài chính của các ngân hàng sau này là ví dụ điển hình của Lý thuyết xung đột trong đời thực, theo các tác giả Alan Sears và James Cairns trong cuốn sách “A Good Book, in Theory”.

Họ cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính là kết quả tất yếu của sự bất bình đẳng và bất ổn của hệ thống kinh tế toàn cầu, cho phép các ngân hàng và tổ chức lớn nhất tránh được sự giám sát của chính phủ và chịu rủi ro lớn.

Sears và Cairns nhận thấy rằng các ngân hàng và doanh nghiệp lớn sau đó đều nhận được tiền cứu trợ từ chính phủ do họ không có đủ quĩ cho các chương trình xã hội qui mô lớn như chăm sóc sức khỏe toàn cầu. Sự hỗ trợ đối lập này cho một giả định cơ bản về Lý thuyết xung đột đó là các thể chế chính trị và thực hành văn hóa chính thống ủng hộ các nhóm và cá nhân thống trị.

Ví dụ này minh họa rằng xung đột có thể là cố hữu trong tất cả các loại mối quan hệ, bao gồm cả những mối quan hệ không xuất hiện ngoài mặt để đối nghịch. Nó cũng cho thấy rằng ngay cả một kịch bản đơn giản cũng có thể dẫn đến nhiều lớp xung đột.

3. Sự phát triển của lý thuyết xung đột:

Lý thuyết xung đột cho rằng căng thẳng và xung đột nảy sinh khi các nguồn lực, địa vị và quyền lực được phân bổ không đồng đều giữa các nhóm trong xã hội và những xung đột này trở thành động cơ cho sự thay đổi xã hội. Trong bối cảnh này, quyền lực có thể được hiểu là quyền kiểm soát các nguồn lực vật chất và của cải tích lũy, kiểm soát chính trị và các thể chế tạo nên xã hội, và địa vị xã hội của một người so với những người khác [không chỉ được xác định theo giai cấp mà còn bởi chủng tộc, giới tính, giới tính, văn hóa , và tôn giáo, trong số những thứ khác].

Lý thuyết xung đột bắt nguồn từ công trình của Karl Marx , người tập trung vào nguyên nhân và hậu quả của xung đột giai cấp giữa giai cấp tư sản [chủ sở hữu tư liệu sản xuất và nhà tư bản] và giai cấp vô sản [giai cấp công nhân và người nghèo]. Tập trung vào các tác động kinh tế, xã hội và chính trị của sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu , Marx đưa ra lý thuyết rằng hệ thống này, dựa trên sự tồn tại của một giai cấp thiểu số hùng mạnh [giai cấp tư sản] và một giai cấp đa số bị áp bức [giai cấp vô sản], đã tạo ra xung đột giai cấp. bởi vì lợi ích của cả hai trái ngược nhau, và các nguồn lực đã được phân phối không công bằng giữa họ.

Xem thêm: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Trong hệ thống này, một trật tự xã hội bất bình đẳng được duy trì thông qua sự ép buộc về mặt ý thức hệ tạo ra sự đồng thuận – và sự chấp nhận các giá trị, kỳ vọng và điều kiện do giai cấp tư sản xác định. Marx lý thuyết rằng công việc tạo ra sự đồng thuận được thực hiện trong “kiến trúc thượng tầng” của xã hội, bao gồm các thể chế xã hội, cơ cấu chính trị và văn hóa, và cái mà nó tạo ra sự đồng thuận là “cơ sở”, các quan hệ kinh tế của sản xuất.

Marx lý luận rằng khi điều kiện kinh tế xã hội tồi tệ hơn đối với giai cấp vô sản, họ sẽ phát triển ý thức giai cấp bộc lộ sự bóc lột của họ dưới tay giai cấp tư sản giàu có của giai cấp tư sản, và sau đó họ sẽ nổi dậy, đòi thay đổi để giải quyết mâu thuẫn. Theo Marx, nếu những thay đổi được thực hiện để xoa dịu xung đột vẫn duy trì một hệ thống tư bản chủ nghĩa, thì chu kỳ xung đột sẽ lặp lại. Tuy nhiên, nếu những thay đổi được thực hiện tạo ra một hệ thống mới, như chủ nghĩa xã hội , thì hòa bình và ổn định sẽ đạt được.

Nhiều nhà lý thuyết xã hội đã xây dựng lý thuyết xung đột của Marx để củng cố, phát triển và hoàn thiện nó trong nhiều năm. Giải thích tại sao lý thuyết về cuộc cách mạng của Marx không thể hiện trong cuộc đời ông, học giả và nhà hoạt động người Ý  Antonio Gramsci  cho rằng sức mạnh của hệ tư tưởng mạnh hơn những gì Marx đã nhận ra và cần phải làm nhiều việc hơn nữa để vượt qua bá quyền văn hóa, hoặc  thống trị thông qua ý thức chung . Max Horkheimer và Theodor Adorno, các nhà lý luận phê bình thuộc Trường phái Frankfurt , đã tập trung công việc của họ vào việc sự trỗi dậy của văn hóa đại chúng – nghệ thuật, âm nhạc và phương tiện truyền thông đại chúng – đã đóng góp như thế nào vào việc duy trì bá chủ văn hóa. Gần đây hơn, C. Wright Mills đã dựa trên lý thuyết xung đột để mô tả sự trỗi dậy củamột “tầng lớp quyền lực” nhỏ bé bao gồm các nhân vật quân sự, kinh tế và chính trị đã cai trị nước Mỹ từ giữa thế kỷ XX.

Nhiều người khác đã dựa trên lý thuyết xung đột để phát triển các loại lý thuyết khác trong khoa học xã hội, bao gồm lý thuyết nữ quyền , lý thuyết chủng tộc phê phán , lý thuyết hậu hiện đại và hậu thuộc địa, lý thuyết đồng tính, lý thuyết hậu cấu trúc và các lý thuyết về toàn cầu hóa và hệ thống thế giới . Vì vậy, mặc dù lý thuyết xung đột ban đầu mô tả cụ thể các xung đột giai cấp, nhưng qua nhiều năm, nó đã tự cho mình nghiên cứu về cách các loại xung đột khác, như những xung đột tiền đề về chủng tộc, giới tính, tình dục, tôn giáo, văn hóa và quốc tịch, trong số những loại khác, là một phần. cấu trúc xã hội đương đại và cách chúng ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta.

Lý thuyết về sự phát triển của tội phạm vị thành niên trong tội phạm học thế giới

Cập nhật ngày: 30-08-2017

Tạp chí CSND - Để hiểu được phòng ngừa tội phạm vị thành niên, cần phải hiểu rõ các khía cạnh lý thuyết liên quan đến yếu tố dẫn đến việc vị thành niên phạm tội. Trong phần này chúng tôi khai thác lý thuyết xã hội học và ảnh hưởng của lý thuyết này tới khái niệm về những yếu tố liên quan đến tội phạm và làm thế nào để xây dựng các biện pháp can thiệp hiệu quả.

Môi trường xã hội đã từ lâu cho rằng có một vai trò to lớn trong việc phát triển các hành vi tội phạm ở người trẻ tuổi. Tuy nhiên, không có một lý thuyết nào giải thích tại sao trẻ em phạm tội, một số nhà lý luật tội phạm học của thế kỹ 20 đã xem xét vai trò của môi trường trong phát triển hành vi phạm tội [Deutschmann, 2005].  Chúng ta cần biết những lý thuyết này vì chúng đã được xử dụng rất nhiều bởi các nhà hoạch định chính sách và ở các trường đại học của Nam Mỹ và Châu âu để xem xét các giải pháp thay thế cho các giải pháp tư pháp hình sự dựa trên cơ sở trừng phạt theo truyền thống đối với những người phạm tội trẻ tuổi. Cần phải lưu ý rằng bối cảnh văn hoá và lịch sử của Việt nam rất khác với Nam Mỹ nơi các lý thuyết này được xây dựng. Vì vậy, những lý thuyết này không phải dành cho vấn đề phạm tội vị thành niên của Việt nam, mà để nhấn mạnh việc nhận biết tác động của hoàn cảnh xã hội tới các hành vi phạm tội vị thành niên. Nhà lý luận đầu tiên đưa ra lý thuyết về việc môi trường đóng một vai trò như thế nào trong việc phát triển tội phạm là Emile Durkheim người đã phản đối kịch liệt lý thuyết tâm lý về các hành vi lệch chuẩn và tiên phong cho lý thuyết “xã hội học” cho sự lệch chuẩn. Vào nửa đầu thế kỷ, ông đã chỉ một lối sống có thực gọi là “vô tổ chức” nơi các quy định xã hội bị phá vỡ hay lỏng lẻo và mọi người không biết cách gắn kết với nhau hay mong đợi gì ở nhau. Năm 1938, Merton đã từ ý tưởng của Durkeim phát triển nên lý thuyết của sự Căng thẳng. Tại đây ông cho rằng “xung đột” [với pháp luật hay với người nào khác] có thể xuất hiện khi có một sự khác biệt giữa mục tiêu văn hoá và xã  hội và phương tiên để đạt được các mục tiêu này. Ông tin rằng những người không tiếp cận được đến các phương tiên hợp pháp để đạt được các mục tiêu xã hội này sẽ xuất hiện những căng thẳng và có xu hướng sử dụng những phương tiện không hợp pháp hay phạm tội để đạt được các mục tiêu đó. Lý thuyết của Merton là rất có ích bởi vì nó cho chỉ ra rằng mặc dù các cá nhân không có các phương tiện như nhau để đạt được các mục tiêu này, nhưng tất cả chúng lại đều có chung mục đích là phải có được những phương tiện này, những phương tiện đã được xã hội đánh giá cao. Trong kỷ nguyên bùng nổ thông tin này, trẻ em Việt nam có thể bị ảnh hưởng bởi nền văn hoá phương tây, một nền văn hoá ca ngợi sự thành công vật chất thông qua phim ảnh và âm nhạc, như vậy mục tiêu của các thanh niên ở Việt nam có thể không khác nhiều so với thanh niên cùng lứa ở các quốc gia khác trên thế giới. Thực tế như vậy làm cho lý thuyết của Merton ban đầu được xây dựng ở Mỹ trở nên có liên quan hơn tại các khu vực có lịch sử và truyền thống văn hoá khác nhau. Vào những năm 1960, các nhà lý luận cho rằng có những con đường hợp pháp và không hợp pháp để một người có thể đạt được mục tiêu. Bởi vì bất cứ một cá nhân nào cũng không có đủ những phương tiện hợp pháp để đạt được mục tiêu, và cá nhân này cũng có thể không có những phương tiện bất hợp pháp để đạt được các mục tiêu này. Ví dụ, Cloward và Ohlin [1960] đã đề xuất một lý thuyết về tội phạm có tên gọi là lý thuyết cơ hội khác biệt để tổng hợp hai công trình nghiên cứu của Durkheim và Merton. Họ nói tội phạm sẽ nở rộ nếu điều kiện xã hội trong cộng đồng đó cho phép như vậy. Họ tin rằng một vài thành viên trong xã hội được tiếp cận đến những cơ hội hợp pháp [giáo dục, kinh doanh, chính trị], trong khi đó những người khác lại tiếp cận đến những cơ hội bất hợp pháp [tội phạm nhỏ, tội phạm có tổ chức]. Hơn nữa, họ còn nói những cộng đồng có những cơ hội bất hợp pháp được tổ chức tốt và chặt chẽ sẽ tạo ra môi trường cho những hành vi phạm tội có tổ chức. Điều này càng trở nên trầm trọng hơn vì các cộng đồng thiếu tổ chức sẽ áp dụng ít những quy tắc xã hội và tạo ra văn hoá cho tội phạm. Lý thuyết cơ hội khác biệt này cũng nêu rằng vị thành niên những người thấy mình không thể đạt được mục tiêu thông qua những phương tiên hợp pháp sẽ cố sử dụng những phương tiên bất hợp pháp. Cloward và Ohlin cho rằng có 3 loại văn hoá tội phạm đó là: Văn hoá tội phạm mà ở đó có những cơ hội ‘học hỏi’ để đạt được mục tiêu tiền bạc một cách bất hợp pháp; văn hoá xung đột khuyến khích bạo hành và văn hoá của những người ẩn dật và ở đó vị thành niên lâm vào trạng thái xâm hại và mất hy vọng. Tất cả 3 dạng văn hoá này đều cần được quan tâm bởi hệ thống tư pháp hình sự. Do những văn hoá này có thể xuất hiện ở một số cộng đồng này nhiều hơn cộng đồng kia, nên sự quan tâm của Cảnh sát và nguồn lực có thể dành cho cộng này nhiều hơn cộng đồng kia.  Phần trung tâm của lý thuyết kiểm soát xã hội đó là mối quan hệ bên ngoài đối với nhà trường và gia đình, kết hợp với cam kết bên trong đối với những giá trị tập quán và thể chế xã hội sẽ tạo ra một hình thức kiểm soát xã hội, mà hình thức kiểm soát này có thể khiến vị thành niên tham gia hành vi phạm tội. Hành vi của cha mẹ, phong cách sống của cha mẹ, và sự kiểm soát của cha mẹ là yếu tố rất quan trọng để phòng ngừa hay xử lý tội phạm [Coombs & Landsverk, 1988]. Sự tham gia của gia đình vào trong các hoạt động của cộng đồng cũng là một yếu tố kiểm soát xã hội quan trọng. Đồng thời sự đổ vỡ của gia đình làm sói mòn sự gắn kết với gia đình và với cả cộng đồng [Cao & Wang, 1993]. Từ khía cạnh kiểm soát bên ngoài, sự gắn kết với nhà trường khiến những thanh thiếu niên có thể tham gia vào các hoạt động ngoại khoá lành mạnh và tôn trọng giáo viên [Zimmerman & Apospori, 1993]. Không thích học và bỏ học, cũng là một lý do, làm nới lỏng kiểm soát xã hội [Z. Cao & Wang, 1993]. Lý thuyết kiểm soát xã hội cũng được đề cập đến ở một vài nghiên cứu. Ví dụ, sự gắn bó với cha mẹ và nhà trường, sự tham gia của gia đình, tôn giáo, và thậm chí đức tin cũng không đảm bảo được hiệu quả mong đợi [Hoffman & Su, 1997].  

Gia đình ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành nhân cách của trẻ vị thành niên 

Lý thuyết học từ xã hội cũng cho rằng để tham gia vào tội phạm hay hành vi lệch chuẩn, vị thành niên phải tìm thấy một giá trị trong những hành vi này. Điều này thường xảy ra thông qua mối quan hệ với đồng đẳng có hành vi phạm tội [Akers, 1998]. Lý thuyết học từ xã hội tập trung vào đối tượng thanh thiếu niên có hành vi phạm tội từ những người đồng đẳng và bị chi phối bởi những giải thưởng hay thái độ của bạn bè. Lý thuyết học từ xã hội được hỗ trợ bởi kinh nghiệm thực tế phong phú [Akers, 1998]. Giao lưu với bạn bè có hành vi phạm tội là một yếu tố dẫn đến phạm tội vị thành niên [Brook et al., 1997]. Các nghiên cứu cũng cho thấy tác động của những kỹ năng học được và hành vi phạm tội của bạn bè đồng lứa đến sự tham gia phạm tội của vị thành niên. Kendall, & Guevremont, 1988]. Hơn nữa, các hành vi phạm tội của những người bạn đồng lứa đã chứng mình có dấu hiệu cho những hành vi phạm tội của vị thành niên [Cheung, 1993].  Một cách tiếp cận khác, một lý thuyết học từ xã hội được xây dựng bởi Edwin Sutherland, cho rằng thông qua mối quan hệ qua lại với các thành viên khác, vị thành niên đã học được những giá trị, thái độ, kỹ thuật và động cơ thực hiện hành vi phạm tội. Lý thuyết này cho rằng, hành vi phạm tội được học qua các giao tiếp xã hội. Trọng tâm ở đây là làm thế nào vị thành niên học để trở thành tội phạm. Sutherland cho rằng, hành vi phạm tội trước hết cũng được học theo đúng cách mà chúng ta được học trong cuộc sống và quan hệ với những người khác là yếu tố quan trọng trong tiến trình học hỏi này. Cũng trong lý thuyết này, những hành vi phạm tội và những giá trị hỗ trợ cho hành vi này được học từ các mối quan hệ với những người khác. Cũng cần lưu ý rằng khi những cá nhân có xu hướng với những hành vi lệch chuẩn và thực hiện những hành vi này, là do họ đã học được những hành vi này mà không biết đến những quy định của xã hội. Lý thuyết về mối quan hệ khác biệt không hạn chế tiến trình học hỏi đối với môi trường tầng lớp thấp. Lý thuyết này giúp giải thích tại sao những hành vi lệch chuẩn và tội phạm lại xuất hiện ở tất cả các tầng lớp. Vì vậy rất có thể những người lớn sống ở tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu lại khuyến khích những hành vi phạm tội của vị thành niên bằng cách làm gương bằng chính những hành vi lệch chuẩn của mình như bạo hành gia đình, xâm phạm tài sản bất hợp pháp và say rượu...  Lý thuyết dán mác, do Howard Becker đưa ra vào những năm 1960, quan tâm đến việc làm thế nào để tác động [hay tạo ra] cá tính và hành vi của một cá nhân. Qua cách này cá nhân sẽ được nhìn nhận và mô tả [được dán mác] bởi những người khác trong xã hội. Lý thuyết dán mác đã đem lại một thay đổi lớn trong phương pháp tiếp cận của các nhà tội phạm học từ việc tập trung xem xét lệch chuẩn và hành vi của cá nhân sang nghiên cứu phản ứng của xã hội đối với cá nhân và hành vi của họ. Lý thuyết dán mác cho rằng hành vi lệch chuẩn hay tội phạm phần lớn được quyết định bởi những phản ứng xã hội. Hay nói cách khác nếu không có sự phản ứng này thì không có hành vi lệch chuẩn. Một khi hành vi được dán mác là lệch chuẩn thì cá nhân thực hiện hành vi đó cũng được dán mác là lệch chuẩn. Những người có xu hướng quan sát chặt chẽ những người được xác định là lệch chuẩn thì sẽ tìm ra rất nhiều điều lệch chuẩn từ họ. Những hành vi sau này được tạo ra nhanh hơn và mác đó càng được gắn chặt hơn. Một người được dán mác tội phạm trước hết được nhận biết là một tội phạm; những mặt khác không thuộc mác này có thể bị lãng quyên. Một cá nhân có thể bắt đầu chấp nhận mác này như một ý thức cá nhân. Sự chấp nhận mác này tuỳ thuộc vào sức mạnh ý thức của cá nhân và áp lực của tiến trình dán mác. Lý thuyết phát triển nhận thức cho rằng khả năng nhận thức hạn chế sẽ dẫn tới hành vi phạm tội [Galavotti, McCuan, & McAlister, 1990]. Lý thuyết này là một dạng lý thuyết tự kiểm soát. Nó yêu cầu cá nhân phải có khả năng kiểm soát sự bốc đồng của mình. Khi cá nhân không có khả năng tự lập luận đầy đủ về sự tán thành hay phản đối tội phạm họ có khả năng lựa chọn hoạt động tội phạm.  Thiếu tướng, PGS, TS. Phạm Ngọc Hà

Chuyên viên Học viện CSND

Theo Tạp chí Cảnh sát nhân dân – Csnd.vn

Video liên quan

Chủ Đề