Tại sao phải tích lũy tư bản

TRUNG TÂM GIA SƯ GLORY    -    TRUNG TÂM UY TÍN TẠI HẢI PHÒNG.    ĐỊA CHỈ: NGÕ 275 ĐÔNG KHÊ, NGÔ QUYỀN, HẢI PHÒNG

Chúng ta biết rằng, Quá trình sản xuất của xã hội là một quá trình liên tục, luôn được lặp đi lặp lại và không ngừng đổi mới. Hiện tượng đó được gọi là tái sản xuất. Phân loại, tái sản xuất có 2 loại  là : Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Trước hết, là tái sản xuất giản đơn. Nếu quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ thì gọi là tái sản xuất giản đơn. Trong quá trình này, toàn bộ thặng dư được tiêu dùng cho cá nhân không đầu tư trở lại sản xuất. Ví dụ : Nhà tư bản đầu tư 100 triệu và sau quá trình sản xuất, anh ta thu về được 120 triệu, với giá trị thặng dư thu được là 20 triệu. Sau chu kỳ sản xuất, anh ta tiếp tục đầu tư 100 triệu vào tái sản xuất, còn 20 triệu dôi ra, anh ta dùng để mua sắm tư liệu sinh hoạt cho bản thân và gia đình. Khi đó, gọi là tái sản xuất giản đơn, quá trình tái sản xuất này vẫn được lặp lại, nhưng với quy mô như cũ các bạn nhé ! Tuy nhiên, Nếu quá trình tái sản xuất được lặp lại nhưng với quy mô và trình độ tăng lên thì gọi là tái sản xuất mở rộng. Để có tái sản xuất mở rộng phần thặng dư thu được phải được trích ra để đầu tư trở lại mở rộng sản xuất, biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Trở lại ví dụ trên, nhà tư bản thu được 20 triệu giá trị thặng dư, anh ta chi cho tiêu dùng cho gia đình 10 triệu, còn 10 triệu anh ta tiếp tục đưa vào đầu tư sản xuất tiếp theo. Đây là quá trình tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản không sử dụng hết giá trị thặng dư thu được cho tiêu dùng cá nhân mà biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Quá trình này được lặp đi lặp lại, nhưng với quy mô lớn hơn,

Đến đây, ta thấy rằng: bản chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa, thông qua việc biến giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng quy mô sản xuất, hay nói cách khác nhà tư bản không sử dụng hết giá trị thặng dư thu được cho tiêu dùng cá nhân mà biến nó thành tư bản phụ thêm.


Như vậy, nguồn gốc duy nhất của tích lũy bản tư bản chính là giá trị thặng dư. Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành thống trị, mà còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.

Tích lũy tư bản bản chất là tái sản xuất mở rộng

Năm thứ nhất, nhà tư bản có tư bản ứng trước là 5000, gồm 4000C và 1000V, giả sử cứ 1V tạo ra được 1M và chu kỳ sản xuất là 1 năm, thì cuối năm thứ nhất, nhà tư bản sẽ có lượng giá trị là : 4000C + 1000V + 1000M Trong tái sản xuất mở rộng, Nhà tư bản không tiêu dùng hết toàn bộ 1000M đó cho cá nhân, mà chỉ tiêu dùng một nửa, chẳng hạn 500M, nửa còn lại dùng làm tư bản phụ thêm để mở rộng kinh doanh. Giả sử mọiđiều kiện khác không thay đổi, thì sang năm thứ hai, quy mô tư bản sẽ là : [4000 + 400]C + [1000 + 100]V = 5.500 Hết năm thứ hai, nhà tư bản sẽ có lượng giá trị là : [4000 + 400]C + [1000 +100]V + 1100M Nếu, trong số giá trị thặng dư mới tạo ra đó, nhà tư bản lại cũng chỉ tiêu dùng một nửa [550], thì năm thứ ba, quy mô tư bản sẽ là : [4.400 + 440]C + [1100 + 110]V = 6050 Hết năm thứ ba, nhà tư bản sẽ có lượng giá trị là : [4.400 + 440]C + [1.100 + 110]V + 1.210M Nhà tư bản lại tiếp tục tích lũy, và cứ như vậy, tổng số tư bản của nhà tư bản cứ tăng lên mãi mãi, khiến cho tư bản tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản ứng trước. Mác từng viết : «tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông tích lũy ngày càng lớn»

Sự phân tích trên cho thấy, nguồn gốc của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư. Tư bản nhờ bóc lột giai cấp công nhân mà tăng thêm, đồng thời quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa lại dược tái sản xuất mở rộng. Trước đây, nhà tư bản dùng tư bản để bóc lột giá trị thặng dư, thì bây giờ, nhà tư bản lại dùng chính giá trị thặng dư để bóc lột giá trị thặng dư.

Tích lũy tư bản là yếu tố quan trọng quyết định đến việc mở rộng sản xuất của chủ tư bản. Vậy những nhân tố nào, ảnh hưởng đến quy mô tích lũy ?
Trước hết, quy mô của tích lũy tư bản sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Để mở rộng quy mô tích lũy thì nhà tư bản cần thu hẹp quỹ tiêu dùng. Điều này lý giải vì sao các nhà tư bản luôn tiết kiệm tiêu dùng cá nhân. Nếu tỷ lệ phân chia quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng được xác định thì quy mô tích lũy sẽ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Do đó, những nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng giá trị thặng dư cũng chính là nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản. Ta nhớ lại, công thức khối lượng giá trị thặng dư : M = m’. V , vì thế quy mô tích lũy do m’ và V quyết định. Những nhân tố đó là :

Thứ nhất, trình độ khai thác sức lao động [chính là yếu tố tỷ suất giá trị thằng dư m’]. Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư, nhà tư bản sẽ sử dụng cách như: tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian lao động, tăng năng suất lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân...

Thứ hai, là năng suất lao động xã hội [nhân tố này ảnh hưởng tới tư bản khả biến V]. Nếu năng suất lao động xã hội tăng sẽ dẫn đến giá trị của tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt dịch vụ giảm, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn. Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải bỏ ra tư bản mua máy móc, thiết bị, nhà xưởng … Bộ phận tư bản này tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị thì chuyển dần vào sản phẩm. Mặc dù giá trị đã chuyển một phần vào sản phẩm nhưng bộ phận tư bản  này vẫn hoạt động với tư cách còn đầy đủ giá trị. Bộ phân gía trị của tư bản cố định đã chuyển vào sản phẩm được nhà tư bản thu hồi, có thể đầu tư để  mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc cho vay. Sự chênh lệch giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định đã tiêu dùng ngày càng lớn và trở thành nguồn tích lũy tư bản quan trọng. Thư tư, đại lượng tư bản ứng trước. Tư bản ứng trước càng lớn, quy mô bóc lột giá trị thặng dư càng lớn. Hơn nữa, tư bản ứng trước càng lớn, việc ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ càng thuận lợi. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước càng lớn, tích lũy tư bản càng tăng.

Các bạn thân mến, trên đây là nhưng nội dung chính về bản chất tích lũy tư bản và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Trong triết học Mác – Lênin, khái niệm tích lũy tư bản được sử dụng khá nhiều và xuất hiện khá thường xuyên. Tuy nhiên không phải ai cũng thực sự hiểu đúng và đủ về khái niệm này. Trong bài viết dưới đây, Tri Thức Cộng Đồng sẽ cùng bạn tìm hiểu về tích lũy tư bản cũng như những nội dung cốt yếu xoay quanh chủ đề này.

1. Nguồn gốc của tích lũy tư bản là gì? 

Trước hết, tư bản được định nghĩa là những giá trị đem lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách bóc lột sức lao động của giai cấp vô sản. Trong quan hệ sản xuất tư bản, các nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất, họ bóc lột giai cấp công nhân, người làm thuê để tạo ra giá trị thặng dư cho mình.

Trong đó, tích lũy tư bản là việc mà nhà tư bản biến một phần giá trị thặng dư mà họ thu được trở thành tư bản phụ thêm hay còn gọi là tư bản mới. Lý do mà các nhà tư bản thường có hành động “tích lũy” này là bởi họ muốn mở rộng sản xuất. 

Để thực hiện được mục tiêu này thì nhà tư bản bắt buộc không thể tiêu dùng hết những giá trị thặng dư mà họ có. Họ thường chia giá trị thặng dư thành hai phần, phần thứ nhất dùng để mở rộng xuất, phần thứ hai là để phục vụ cho các mục đích tiêu dùng cá nhân. 

Từ đó có thể thấy rằng, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản chính là giá trị thặng dư. Hoạt động tích lũy tư bản cũng ngày càng chiếm tỉ lệ lớn hơn trong toàn bộ tư bản. Quy luật giá trị thặng dư và cạnh tranh chính là động lực để thúc đẩy tích lũy tư bản.

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tích lũy tư bản

Quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng của giá trị thặng dư. Đồng thời, nó cũng phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu như không có sự biến động trong tỉ lệ phân chia giá trị thặng dư kể trên thì quy mô tích lũy tư bản sẽ bị ảnh hưởng, tác động bởi các nhân tố làm tăng giá trị thặng dư, cụ thể như sau:

  • Tăng cường bóc lột sức lao động: 

Việc nhà tư bản tăng cường các hoạt động nhằm bóc lột đến mức tối đa sức lao động của công nhân, bắt buộc họ phải lao động với cường độ cao, cắt xén, giảm tiền công chính là biểu hiện rõ ràng nhất cho nhân tố này.

  • Tăng năng suất lao động xã hội: 

Có nhiều yếu tố có thể tác động đến việc tăng năng suất lao động của công nhân như sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, trình độ và tay nghề được nâng cao. Đây là một đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ. Tăng năng suất lao động sẽ đem đến những tác động tích cực đối với tích lũy tư bản.

  • Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng: 

Tư bản sử dụng là giá trị của máy móc, thiết bị và tư liệu sản xuất được sử dụng trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Tư bản tiêu dùng là giá trị tiêu hao của máy móc, thiết bị, sự xuống cấp của chúng sau mỗi quá trình sử dụng.

Sự chênh lệch giữa hai yếu tố này càng lớn sẽ càng làm ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến quy mô tích lũy tư bản.

Quy mô tư bản ứng trước càng lớn, càng có điều kiện phát triển nhanh, do đó tích lũy ngày càng nhiều.

3. Quy luật chung của tích lũy tư bản

3.1. Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản trong điều kiện kết cấu của tư bản không đổi

  • Sự tăng lên của lượng cầu về sức lao động: 

Tư bản tăng lên kéo theo tăng thêm bộ phận khả biến của nó hay bộ phận được biến thành sức lao động. Để vận hành một khối lượng tư liệu sản xuất hay tư bản bất biến nhất định cần một khối lượng sức lao động như trước thì lượng cầu về lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên. 

Sự tăng lên này tỉ lệ thuận với tư bản. Theo đó tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng tăng lên nhanh bấy nhiêu.

  • Sự tăng lên về tiền công không ngăn cản việc tăng tích lũy tư bản: 

Có thể thấy, tiền công đòi hỏi người lao động bắt buộc phải tạo ra một số lượng lao động không công cụ thể. Việc tăng tiền công đồng nghĩa với việc giảm bớt số lượng lao động không công mà người lao động bắt buộc phải tạo ra. Quy luật của tích lũy tư bản chỉ ra rằng sự giảm bớt này không thể đi đến mức đe dọa sự tồn tại của bản thân chế độ này. 

3.2. Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến trình tích lũy và tích tụ đi kèm theo tiến trình đó

Một khi đã có những cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa, thì trong tiến trình tích luỹ nhất định sẽ đến lúc sự phát triển của năng suất lao động xã hội trở thành đòn bẩy mạnh nhất của tích luỹ. 

Năng suất lao động tăng thể hiện ở việc giảm bớt khối lượng lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động hay là thể hiện ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan trong quá trình lao động so với các nhân tố khách quan của quá trình đó. 

Sự thay đổi của kết cấu kỹ thuật của tư bản, sự tăng lên của khối lượng tư liệu sản xuất so với khối lượng sức lao động đang làm cho các tư liệu sản xuất đó sống lại, lại phản ánh trở lại vào trong kết cấu giá trị của tư bản, vào trong việc tăng thêm bộ phận bất biến của giá trị tư bản, bằng cách lấy vào bộ phận khả biến của nó. 

3.3. Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối 

  • Nhân khẩu thừa, sản phẩm tất yếu của tích lũy: 

Lượng cầu về lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định mà do quy mô bộ phận khả biến của tư bản quyết định. Do đó cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần dần giảm bớt đi chứ không phải tăng lên theo tỉ lệ với sự tăng thêm của tổng tư bản. 

  • Nhân khẩu thừa, đòn bẩy của tích luỹ tư bản điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: 

Nếu nhân khẩu công nhân thừa là sản phẩm tất yếu của tích luỹ, hay của sự phát triển của cải trên cơ sở tư bản chủ nghĩa, thì ngược lại nhân khẩu thừa này lại trở thành một đòn bẩy của tích lũy tư bản chủ nghĩa và thậm chí còn là điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 

Xem thêm: Mục đích của tích lũy tư bản

4. Ý nghĩa của tích lũy tư bản trong thực tiễn

Đối với các doanh nghiệp hiện nay, việc vận dụng quy luật của tích lũy tư bản vào trong huy động vốn và sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả là vô cùng quan trọng và cần thiết. Trên thực tế, các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa thể cạnh tranh một cách sòng phẳng với các doanh nghiệp nước ngoài phần vì tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh phần vì chưa thực sự chưa có chiến lược và chiến thuật phù hợp.

Tích lũy tư bản đem đến bài học về sử dụng vốn hiệu quả. Doanh nghiệp cũng cần phải tiết kiệm sao cho hợp lý, việc xây dựng cơ sở sản xuất và thiết bị cũng cần phải được tính toán kỹ càng. Nếu như vội vàng đưa ra quyết định đầu tư không hợp lý sẽ gây ra lãng phí, thất thoát tài sản. Yêu cầu đối với doanh nghiệp đó là phải phân bố một cách hợp lý giữa tiêu dùng và tích lũy.

Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần khai thác tối đa các nguồn lực, đây là điều kiện tiên quyết cho quá trình tích lũy vốn của doanh nghiệp. Nội dung này đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước. Do đó doanh nghiệp phải có cơ chế, giải pháp huy động vốn một cách hợp lý. 

Trên đây là toàn bộ nội dung đầy đủ và chi tiết liên quan đến tích lũy tư bản. Hy vọng với những chia sẻ này, bạn đã có thể thu nạp cho mình những kiến thức hữu ích nhất.

Nếu như bạn vẫn còn bất cứ thắc mắc, khó khăn cần giải đáp và giúp đỡ về chủ đề này, hãy liên hệ ngay với Tri Thức Cộng Đồng thông qua SĐT: 0946 88 33 50 hoặc Email: để được hỗ trợ sớm nhất.

Video liên quan

Chủ Đề