Ngô dụng là ai

Như các bạn biết, trong thủy hử quân sư Ngô Dụng được mọi người gọi "Trí đa tinh". Như bộ não cho toàn bộ 108 anh hùng lương sơn. Với tài trí mưu kế thông minh hơn người. Tuy vậy xét về tầm nhìn chiến lược về thảm kịch của những anh hùng lương sơn. Nhiều người tự đặt ra câu hỏi, quân sư Ngô Dụng có xứng đáng với niềm hy vọng là quân sư và đứng vị trí thứ 3 trên Lương Sơn hay không. Trong video này hãy cùng vn tổng hợp tìm hiểu nhé. Trước hết, Ngô Dụng, tự Học Cứu, người làng Đông Khê, huyện Vận Thành, Tế Châu, Sơn Đông.  Là người túc trí đa mưu, còn gọi là "Trí đa tinh". Ông gia nhập lương sơn từ buổi đầu. Sau đây là một vài đánh giá về quân sư Ngô Dụng.


Thứ nhất, tầm nhìn chiến lược của Ngô Dụng rất bình thường.

Sau khi lên Lương Sơn, Ngô Dụng đã không đưa ra được bất cứ chiến lược nào có tầm nhìn xa trông rộng hay mang tính cương lĩnh. Trong khi đó, Tống Giang là người đưa ra cương lĩnh chính trị “thay trời hành đạo”. Những chính trị gia, nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử đều nhìn xa trông rộng, có khả năng dự báo tương lai. Vì vậy, Ngô Dụng không có tầm nhìn chiến lược, trong sách cũng không miêu tả đặc biệt gì về điều này. Do Ngô Dụng không nhìn xa trông rộng, cuối cùng làm cho các hảo hán Lương Sơn kết thúc trong bi kịch.

Thứ hai, Ngô Dụng sơ hở rất nhiều về mưu lược. Trong mưu lược chiến thuật cụ thể, Ngô Dụng đã có không ít sơ hở.

Chẳng hạn, trong việc làm giả thư của Thái Kinh, cuối cùng đã bị Hoàng Văn Bính phát hiện ra sơ hở. Hoặc sau khi bị bắt lên núi, Cao Cầu giả đáp ứng nguyện vọng chiêu an của Tống Giang nên được tha về. Tống Giang cử Tiêu Nhượng đi theo, Ngô Dụng lại cử Nhạc Hòa đi theo. Đến kinh thành, Tiêu Nhượng, Nhạc Hòa đều bị giam lỏng. Quân sự Ngô Dụng biết rõ chiêu an không xong, tại sao không ngăn cản Tống Giang cử Tiêu Nhượng đi, hơn nữa Ngô Dụng còn cử cả Nhạc Hòa theo?

Thứ ba, Ngô Dụng không có phong thái một tay nắm chắc càn khôn.

Truyện Thủy Hử miêu tả, trước khi chinh phạt Phương Lạp, do triều đình đã nghi kỵ, vừa phong thưởng cho các hảo hán Lương Sơn, vừa yết bảng thông báo cấm các anh em Lương Sơn vào thành. Khi đó, Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, anh em Nguyễn Gia Tam đã nói với Ngô Dụng về sự thối nát của triều đình, chia rẽ quân Lương Sơn, đề nghị quân sư Ngô Dụng có “chủ trương”, quay trở về Lương Sơn. Trong thời điểm cấp bách đó, Ngô Dụng lại không dám giương cao ngọn cờ, không dám “làm chủ”, mà nói rằng Tống Công Minh chắc chắn sẽ không đồng ý, cho rằng “từ xưa đến nay, rắn không đầu thì không được” và Ngô Dụng không dám “chủ trương”. Nếu lúc đó, Ngô Dụng và các anh em cùng phản đối, ép Tống Giang tạo phản thì Tống Giang có thể buộc phải tuân theo. Thực ra, Ngô Dụng và Tống Giang có điểm rất khác nhau. Tống Giang hoàn toàn không có cảm tình với Lương Sơn, chỉ coi đó là nơi “làm kẻ cướp” để có tiền. Còn Ngô Dụng thì có tình cảm sâu đậm với Lương Sơn. Cái chết tự vẫn của Ngô Dụng sau này mang màu sắc bi kịch hơn Gia Cát Lượng.

Thứ 4, quân sư Ngô Dụng thực tế không có khả năng “phá trận, bố binh”.

Khi nói về khả năng phá trận pháp của đối phương, rõ ràng quân sư Ngô Dụng có nhiều hạn chế, không ít lần đã phải nhờ tới sự trợ giúp của Công Tôn Thắng mới hóa giải giải được tình thế nguy khốn cho quân Lương Sơn.
Như vậy với 4 điểm hạn chế như trên, quân sư Ngô Dụng thức có tài trí hơn người, chứ không đủ tầm kinh thiên tế thế. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khiến cho các anh hùng lương sơn rơi vào tình thế diệt thân, vì trên Lương Sơn không có quân sư thật sự có tầm nhìn chiến lược chăng.

Tư Mã Ý là người nhẫn nhịn, biết chờ đợi và chớp lấy thời cơ để giành chiến thắng trong chiến tranh cũng như giành lấy thiên hạ về tay mình.

Ngô Dụng: Trái lệnh chúa, cứu làng Chèo

Mạnh Thắng

15:15 06/08/2020

Ngô Dụng hay còn gọi là Trịnh Ngô Dụng [1684-1746], là một nhà khoa bảng thời Lê - Trịnh. Làm quan, đi sứ, sống đức độ, ông được chúa Trịnh quý trọng. Khi nhận mệnh tiêu diệt làng chèo của hoạn quan Hoàng Công Phụ, ông đã trái lệnh chúa, sơ tán người làng chèo về quê mình rồi lập hiện trường giả để che mắt…

Tổ thứ 3 làng Vân Xuyên

Trịnh Ngô Dụng tự là Điển Giai, hiệu là Quế Hiên. Ông là người xã Vân Trùy, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà xứ Kinh Bắc xưa - nay là thôn Vân Xuyên, xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

Nhà nghiên cứu Trần Văn Lạng- Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Giang trong một lần điền dã về thôn Vân Xuyên đã chép tay lại gia phả họ Ngô tại Vân Xuyên. Nội dung lời tựa gia phả cho biết: Cuốn gia phả được chép lại vào tháng Chạp, niên hiệu Khải Định 3 [1918]. Gốc tích của Ngô làng Vân Xuyên được ghi như sau: “… tiên tổ nhà ta vốn dòng dõi hào trưởng, người họ Bùi người ở lộ Sơn Nam, huyện Thiên Thi”. Như vậy, dòng họ của Ngô Dụng vốn gốc họ Bùi ở Ân Thi, Hưng Yên.

Tương truyền, thời xưa, ở xã Thù Sơn [nay là Hòa Sơn, Hiệp Hòa, Bắc Giang] có một gia đình họ Ngô hiếm muộn đã về vùng Thiên Thi xin con nuôi. Một gia đình có 5 người con trai vất vả đã cho đứa con út về làm con nuôi gia đình họ Ngô. Từ Bùi Phúc Hữu, cậu bé được đổi tên thành Ngô Văn Hữu tự là Minh Độ, hiệu là Phúc Khanh. Sau đó ít năm, gia đình họ Ngô chuyển sang làng Vân Xuyên sinh sống. Ngô Văn Hữu trở thành tổ thứ nhất làng Vân Xuyên. Ngô Văn Hữu làm quan triều vua Lê chúa Trịnh, được ban Đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu, hàn lâm viện, trụ thượng quốc, thừa chi cơ trạch bá Ngô Tướng Công.

Đời thứ hai của họ Ngô là cụ Ngô Văn Khuyến, tự là Tuần Nho, hiệu là Tuệ Chính. Cụ cũng làm quan trong triều và được phong Đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu, bộ hộ hữu thị lang diên trạch bá Ngô Tướng Công.

Ngô Dụng là con của cụ Ngô Văn Khuyến. Tương truyền, Ngô Dụng khi mới sinh ra tướng mạo khôi ngô tuấn tú, mắt trong và sáng, hai tai dày và to, đằng sau phía vai phải có một nốt ruồi đỏ chót. Thủa nhỏ, Ngô Dụng nổi tiếng thông minh hiếu học. Khi đó, cha của Ngô Dụng đã tự bỏ của nhà mở lớp mời thầy giỏi, rồi cho con và con em người khác trong làng tới học. Nhà học ngày xưa nay được trùng tu làm từ đường họ Ngô. Ngôi từ đường gồm 3 gian, rộng khoảng 40 m2, cột gỗ lim, các cấu kiện khác phần nhiều bằng chất liệu gỗ xoan. Trong ngôi từ đường này hiện còn các di vật quý như: lư hương gỗ sơn mài có vẽ hai bức tranh sơn thủy do triều đình đưa viếng từ năm 1746. Ngày nay, tuy lư hương có chỗ bị bong tróc bởi thời gian nhưng họa tiết với nét vẽ giản dị vẫn còn nguyên vẹn thể hiện sự tài hoa khéo léo mà thấm đậm tâm hồn Việt. Từ đường còn lưu giữ di vật quý khác là cỗ đòn khiêng kiệu triều đình ban khi vinh quy bái tổ.

Đỗ đạt

Thủa nhỏ, Ngô Dụng còn được cha gửi tới học tiến sĩ Trịnh Đức Liên ở làng Đại Mão [nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh].

Năm 12 tuổi, Ngô Dụng đi thi hương nhưng bị các quan trường chê là nhỏ tuổi nên không cho thi. Năm 15 tuổi, Ngô Dụng dự thi hương, đỗ tam trường. Năm 19 tuổi lại thi hương, đỗ tứ trường. Năm 29 tuổi thi xuân thí [thi hội], đỗ tam trường.

Sau khi đỗ thi hương, Ngô Dụng được bổ làm quan Huấn đạo. Năm Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái thứ 2 [1721] đời vua Lê Dụ Tông, nhà nước mở khoa thi. Ngô Dụng đã tham gia ứng thí khi đã 38 tuổi. Ở kỳ thi Hội có hơn 3000 sĩ tử dự thi, triều đình lấy đỗ 25 người. Trịnh Ngô Dụng đỗ hàng thứ 7 [Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân].

Tuy xuất thân văn quan, nhưng Ngô Dụng lại từng nhiều lần đảm nhận chức võ quan và trực tiếp cầm quân đi đánh dẹp các cuộc nội loạn. Ông trải qua rất nhiều chức vụ như: Binh khoa cấp sự trung, Giám sát ngự sử, Lại bộ Tả Thị lang, Tham tụng, tước Lại Đình hầu.

Vì có công, ông được ban họ chúa đổi là Trịnh Ngô Dụng.

Phủ chúa rối ren

Trong khoảng thời gian nắm quyền [từ tháng 10/1729 đến tháng 1/1740], Uy Nam vương Trịnh Giang rất bạo ngược: Phế truất rồi sát hại vua Lê Duệ Tông, lập Lê Thuần Tông lên ngôi. Nhiều đại thần lớn trong triều như thượng thư Lê Anh Tuấn, tể tướng Nguyễn Công Hãng, hoạn quan Đỗ Bá Phẩm, Thiêm quận công Trương Nhưng bị xử chết.

Trịnh Giang còn xây dựng nhiều công trình chùa chiền làm hao tiền tốn của và nặng nhọc sức dân. Ví như dựng lại chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều. Chùa Quỳnh Lâm vốn là chùa do thiền sư Nguyễn Minh Không thời Lý xây dựng; Xây dựng chùa Sùng Nghiêm [xã Nam Giản, Chí Linh, Hải Dương], chùa Hồ Thiên [Lạng Giang, Bắc Giang], hành cung Quế Trạo [xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang] – là quê của Tổng thái giám Đề quận công Hoàng Công Phụ. Hành cung Tử Dương [quê ngoại chúa]…

“Khâm định Việt sử thông giám cương mục” còn viết về việc buôn bán quan tước: Năm 1736, Trịnh Giang ra lệnh: Quan và dân đều cho phép nộp tiền. Các viên quan trong triều ban từ lục phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan tiền sẽ được thăng chức một bậc; với người dân, ai nộp 2.800 quan được bổ thụ tri phủ, nộp 1.800 quan được bổ thụ tri huyện.

Năm 1736, nghe lời Tổng thái giám Đề quận công Hoàng Công Phụ, Trịnh Giang còn tổ chức thi đình ở phủ chúa và tự lấy Trịnh Huệ đỗ Trạng nguyên.

Sau khi bị sét đánh chết hụt, Trịnh Giang bị bệnh “kinh quý”, tâm thần bất định, hay hoảng hốt và sự hãi. Hoàng Công Phụ bèn “tư vấn” đào hầm, làm cung Thưởng Trì để trốn sẽ đỡ. Hoàng Công Phụ còn xin Trịnh Giang đặt ra thêm giám quan để giám sát hai ban văn võ.

Cứu làng chèo khỏi bị tàn sát

Phủ chúa rối ren nên các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra ở nhiều nơi. Đáng chú ý là cuộc khởi nghĩa của Quách Công Thi [Lạc Sơn, Hòa Bình], nhà sư Nguyễn Đương Hưng [Tam Đảo], Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, Nguyễn Danh Phương, Vũ Đình Dung, Vũ Trác Oánh, Nguyễn Tuyển…

Năm 1740, nhân khi Tổng thái giám Đề quận công Hoàng Công Phụ phải đi đánh dẹp loạn Nguyễn Tuyển ở Ninh Xá, nên bà Trịnh Thái phi Vũ thị [mẹ Trịnh Giang] cho triệu Bồi tụng Hữu tư giảng Nguyễn Quý Cảnh đến khuyên Trịnh Doanh [em ruột Trịnh Giang] lên thay. Quý Cảnh đem việc ấy nói với Bồi tụng Nguyễn Công Thái và các đại thần Trịnh Đạc, Vũ Tất Thận, Nguyễn Đinh Hoàn. Và việc thành công, Trịnh Giang bị giam ở chính cung Thưởng Trì, 20 năm sau thì chết.

Tổng thái giám Đề quận công Hoàng Công Phụ trở về bị xử chết. Để “nhổ cỏ tận gốc”, Trịnh Doanh sai Trịnh Ngô Dụng cầm quân về tàn sát làng Chèo, tổng Quế Trạo [nay thuộc xã Thái Sơn huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang], nơi có hành cung Quế Trạo – quê hương của Hoàng Công Phụ.

Quê của Trịnh Ngô Dụng chỉ cách quê của Tổng thái giám Đề quận công Hoàng Công Phụ vài cây số dọc theo dòng sông Cầu. Dẫu sao đó cũng là quê hương Hiệp Hòa của ông. Tru di tam tộc nhà hoạn quan Hoàng Công Phụ thì có thể chứ nỡ nào lại tàn sát người dân vô tội chỉ vì họ ở cùng quê hoạn quan?

Trăn trở nhưng cũng rất quyết đoán. Trịnh Ngô Dụng đã quyết định trái lệnh chúa Trịnh Doanh. Ông cử người tâm phúc bí mật chạy ngựa về báo cho người sang lánh sang tổng Hoàng Vân – quê hương của mình trốn. Ngày hôm sau, Thượng tướng quân Trịnh Ngô Dụng cầm quân về làng Chèo thì không còn ai. Một số trâu bò gà lợn còn sót lại bị giết. Ông lệnh cho đắp hàng trăm ngôi mộ chôn và rải vôi bột khắp nơi. Giám quan về thấy như vậy không kiểm tra kỹ về báo lại chúa là làng Chèo đã bị xóa sổ.
Đến đời chúa Trịnh Sâm ban đại xá. Người dân làng Chèo từ tổng Hoàng Vân lại về bản quán. Tưởng nhớ công ơn của Trịnh Ngô Dụng, ông Hoàng Xuân Thảo – người làng Chèo nói: “Hàng năm, vào ngày giỗ cụ 3/7 âm lịch, dân làng chúng tôi vẫn mang lễ lên dâng tạ ơn cụ”.

Trịnh Ngô Dụng đi sứ năm 1746. Trở về, ông bị bệnh và mất cùng năm đó. Trước khi mất, ông dặn con cháu không được xây cất lăng mộ hoành tráng. Huyệt mộ được ông chọn ở xứ Vườn Thông [thôn Vạn Thạch, xã Hoàng Vân]. Được tin, triều đình đã cử quan Khâm sai đại thần Nguyễn Trọng Đôn về viếng, phong tặng tước Lại Quận Công, được phong Phúc đẳng thần, được phối thờ ở đình làng Vân Xuyên [xã Hoàng Vân] cùng với thành hoàng Cao Sơn Quý Minh [còn gọi là Đức Thánh Đuổm, Dương Tự Minh].

Hậu duệ của cụ Ngô Dụng sau này có cụ Ngô Văn Thấu [cụ Đồ Ba] lấy bà Nguyễn Thị Uyên [là cô cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ]. Người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Văn Cừ đã giác ngộ các người con của cụ Đồ Ba là Ngô Văn Đán, Ngô Văn Hiệp [tức Ngô Tuấn Tùng] và Ngô Văn Thạnh [tức Ngô Duy Phương]. Những người cộng sản đầu tiên của huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang này đến năm 1945 đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền sớm nhất trên cả nước.

Ngày nay, trên quê hương Hoàng vân vẫn còn lưu truyền bài thơ ca ngợi tiến sĩ Ngô Dụng:

Đệ nhất quận công tổng Hoàng Vân
Trụ quốc thượng giai, phúc đẳng thần
Lăng tẩm không xây, thông reo mãi
Nấm mộ đơn sơ giữa cõi trần
Trí dũng song toàn phò non nước
Trung hiếu đôi đường vẹn chữ nhân
Ngàn năm tên tuổi ghi bia đá
Văn Miếu lưu truyền đến vạn xuân.

Chủ đề: Ngô Dụng lệnh chúa làng Chèo

Video liên quan

Chủ Đề